QUỐC BẢO CHÂN KINH VĂN LANG CHIẾN SỰ 2 SỬ TRUYỆN PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG THIÊN ẤN - THIÊN BÚT GÒ HỘI ĐỨC PHỔ - QUẢ...
QUỐC BẢO CHÂN KINH
VĂN LANG CHIẾN SỰ 2
SỬ TRUYỆN
PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG
THIÊN ẤN - THIÊN BÚT
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ - QUẢNG NGÃI
2013
Nguyễn Đức Thông
QUYỂN 3
ĐẠI CHIẾN QUÂN ÂN
Đây
nói về chủ soái Nguyên Dực, thống lãnh hơn 10 vạn quân bọc theo hướng Tây đồi
Vạn Lâm, chận đánh đường rút lui quân Ân, rồi thẳng xuống Đông Bắc, chiếm lại
thành Kinh Châu. Đại quân bọc Tây cách đồi Vạn Lâm hơn 15 dặm thời nghe như có
trận chiến, những người có nội công thâm hậu mới có cảm giác nghe được.
Nguyên
Dực lấy làm lạ tự hỏi: Không lẽ đồi Vạn Lâm đã xảy ra trận chiến. Nguyên Dực
nghĩ không thể như thế được, nếu có trận chiến xảy ra phải đến chiều mai, quân
Ân mới đến được đồi Vạn Lâm, không thể sớm như vậy được, lại nữa trời đã hừng
sáng. Đại quân cũng sắp qua khỏi địa phận Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, đến Huyện
Nam Tây Sơn Kinh Châu, trong lòng Nguyên Dực cứ mãi không yên, liền cho quân dừng nghĩ, cho hai toán quân đi
thám thính, một là thám thính địa phận Huyện Tây Sơn Kinh Châu, hai là thám thính Đồi Vạn Lâm xem chuyện gì
đã xảy ra.
Chủ
soái Nguyên Dực hỏi:
Các tướng có nghe thấy gì không?
Có
người nói:
Không nghe thấy gì cả.
Có
người nói:
Hình như có trận chiến xảy ra.
Hai
toán quân thám báo đi chưa được bao lâu thời liền quây trở lại cấp báo:
Bẩm chủ soái đồi Vạn Lâm đã xảy ra trận
chiến, không biết thua thắng thế nào.
Toán
quân thứ hai báo:
Bẩm chủ soái quân Ân cờ xí rợp trời đã vượt
qua Huyện Tây Sơn tiến đánh chúng ta.
Chủ
Soái Nguyên Dực ra lệnh:
Hãy bày binh bố trận.
Hiệu
lịnh cờ trận phất lên, tức tốc đại quân duy chuyển chiếng trống nổi lên đại
quân nhanh chóng lập thành ngũ hành trận, trung ương trận liền dựng lên một cái
đài cao bảy thước, chủ soái Nguyên Dực trực tiếp chỉ huy. Đài vừa dựng xong
thời quân Ân cũng vừa kéo đến, cờ xí rợp trời, dẫn đầu là một Tướng nữ trung
niên vô cùng xinh đẹp.
Nguyên
Dực hỏi:
Biết nữ Tướng đó là ai không?
Tức
thời có người đáp:
Nhìn lá cờ lớn có hai chữ Sát Sát, thời cũng
biết nữ Tướng trung niên xinh đẹp kia là vợ lớn của Ân Mao Vương, Ân Mao Vương
có hai người vợ vô cùng lợi hại, khắc tiếng nước Man Du, đó là Sát Sát Ân Nương
Nương, và Nghịch Phong Ân Nương Nương.
Người
hiểu rõ về nữ Tướng giặc Ân đó là ai vậy, không ai khác hơn là Hầu Thái Công.
Đây
nói về Sát Sát nữ Tướng giặc Ân, rầm rầm rộ rộ kéo quân tới, thấy quân Văn Lang
đông như kiến, đã bày binh bố trận xong xui, sát khí trùng trùng.
Sát
Sát hỏi:
Đây có phải là ngũ hành trận nổi tiếng mấy
nghìn năm của quân Văn Lang không? Đã từng đánh bại nhiều quân xâm lược có phải
không?
Có
một vị Đạo Sĩ mặt xanh râu dài nói:
Bẩm Nương Nương quả đúng đây là trận ngũ
hành, không dễ gì phá được, quân binh chuyển biến khó lường.
Sát
Sát nói:
Không phá cũng phải phá, ngươi thử ước lượng
phá trận ngũ hành nầy cần bao nhiêu quân.
Đạo
Sĩ thưa:
Bẩm Nương Nương phải trên 15 vạn quân, ba
vạn quân đánh một cửa, 12 vạn quân đánh bốn cửa, còn ba vạn quân thời đánh vào
nơi trọng yếu của ngũ hành trận.
Sát
Sát nghĩ mình có hơn 8 vạn quân thời khó mà đánh, liền cho người đến đồi Vạn
Lâm, điều động quân binh Võ Vu bổ sung
cho đủ quân số chịu trách nhiệm đánh Đông ngũ hành trận. Lại cho người tới
Huyện Ninh Điền, điều động quân Hồ đánh vào cánh Nam ngũ hành trận.
Sát
Sát ra lệnh:
Hồ Phiên nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân
thống lĩnh ba vạn quân, chịu trách nhiệm đánh cánh Tây ngũ hành trận, thuộc hạ
tuân lịnh. Tào Côn thống lãnh 3 vạn quân chịu trách nhiệm đánh Bắc ngũ hành
trận.
Nói
về Võ Vu tuy thắng trận ở đồi Vạn Lâm nhưng cũng đi tiêu hơn một vạn quân, vẩn
còn đang khiếp vía trước tinh thần chiến đấu anh dũng của quân Văn Lang, còn
hai vạn quân rút ra khỏi đồi Vạn Lâm chờ lịnh. Tính tới tính lui chỉ còn một
vạn rưởi quân là còn chiến đấu được, còn hơn năm nghìn quân bị thương tơi tả
không dùng được, thời thở dài quân Văn Lang quả là quân Thần, quân Thánh, trong
lúc đang thở dài, thời có chỉ lệnh đưa đến, mau tức tốc đến Huyện Bắc Sơn Ninh
Châu, bổ sung quân cho đủ ba vạn chịu trách nhiệm đánh cửa Đông ngũ hành trận
quân Văn Lang.
Nói
về Hồ Man Quân tuy thắng trận nhưng cũng đi tiêu mất hai vạn quân, Hồ Man Quân
khi thống lãnh quân binh tràn qua đất Văn Lang, đánh đâu thắng đó một cách dễ
dàng, giết hơn mấy Vua Việt, chiếm lấy Châu, Huyện, một cách dễ dàng, sanh ra
kêu ngạo, không coi quân Văn Lang vào đâu. Không ngờ đụng phải quân chủ lực Văn
Lang, một loại quân anh dũng kiên cường, chiến đấu không khác gì loài mãnh hổ.
Tử chiến không bỏ chạy chiến đấu quyết liệt, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Tuy lọt vào vòng vây hiểm địa nhưng anh dũng đánh bật lại bất ngờ quân Hồ kinh
khiếp, bỏ mạng hơn hai vạn quân. Quả là quân Thần, quân Thánh.
Hồ
Man Quân được lệnh điều động quân đến Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, chịu trách nhiệm
đánh thẳng vào cánh Nam ngũ hành quân Văn Lang, Hồ Man Quân tức thời điều động
quân binh lên đường ngay, không bao lâu thời tới Huyện Bắc Sơn, đứng xa xa nhìn
thấy Nam trận ngũ hành sát khí trùng trùng, thời nghĩ thầm, phương Nam có trận
pháp ngũ hành lợi hại vô cùng, biến hóa khó lường, muốn phá trận ngũ đâu phải
dễ không kéo thời bỏ mạng như chơi.
Bằng
viết mật thư gởi cho Hồ Nghi Vương. Đại ý mật thư nói rằng: Quân Ân liên kết
với quân Hồ ta, đã chiếm lấy thành Kinh Châu, đánh bại 5 vạn quân chủ lực Văn Lang ở đồi Vạn Lâm, quét
sạch 5 vạn quân chủ lực Văn Lang ở tại Huyện Ninh Điền, giờ lại tiến đánh phá
đại quân chủ lực Văn Lang tại Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, thời coi như chiếm lĩnh
toàn bộ Bắc Văn Lang. Chúng ta nhân cơ
hội phá trận nầy, chiếm luôn thành Ninh Châu, trước quân Ân.
Nói
về Hồ Nghi Vương lòng đầy tham vọng, hầu muốn nuốt nhanh chóng Tây Bắc Văn
Lang, chỉ cần nuốt được Kiến Châu, thời coi như đã nuốt trọn Tây Văn Lang,
nhưng chưa tìm ra cách chiếm lấy thành Kiến Châu, vì thành Kiến châu kiên cố,
lại có cha con Châu Phủ Châu An, tài giỏi nhất là Châu Tiên. Có pháp thuật thần
thông cao cường, lại thêm quân binh quyết lòng chống trả. Nên không dễ gì chiếm
thành trong ngày một ngày hai được. Hồ Nghi Vương cũng không dại gì công phá
thành, khi chưa nắm được phần thắng. Chỉ cần bao vây thành Kiến Châu, thời
thành Kiến Châu sớm muộn gì cũng vào tay mình. Đang lúc cho người tôm gốp ngọc
ngà châu báu đã vơ vét từ các Quận Huyện, Châu Phủ, mười mấy xe, lúa gạo, trâu
bò, dê lợn, gà vịt, nhiều vô số kể, nhất là trẻ con thời không gì bằng, chúng
nấu hầm mà tẩm bổ, quân Hồ, quân hung Nô, uống máu ăn thịt người là chuyện bình
thường. Trong lúc hai con mắt hau háu nhìn vàng bạc châu báu ớn thời sang qua
nhìn những cô gái tơ có vẻ khoang khoái lắm, gái tơ chính là sở thích của yêu
Hồ, tính đưa tay chụp một cô nỏn nà, thời có người vào báo:
Bẩm Chúa Vương, có người đưa thư đến.
Hồ
Nghi Vương cho đòi người đưa thư vào, đó là một quân thám báo thân cận của Hồ
Man Quân. Hồ Nghi Vương đọc xong ra chiều suy nghĩ, rồi kêu Hồ Mị Hoa đến nói:
Con thống lãnh 2 vạn quân tới trợ giúp cho
chú con Hồ Man Quân, tiêu diệt quân chủ lực Văn Lang đang đóng ở Huyện Bắc Sơn
Ninh Châu. Hồ Man Quân là em của Hồ Nghi Vương, phá trận ngũ hành quân Văn Lang
xong, nhanh chóng chiếm lấy thành Ninh Châu.
Hồ
Mị Hoa liền thống lãnh 5 vạn quân nhanh chóng đến Huyện Bắc Sơn, theo mật thư
của Hồ Man Quân.
ĐẠI CHIẾN QUÂN ÂN
Đây
nói về chủ soái Nguyên Dực, ở trên đài quan sát thấy quân Ân đang chuyển động
quân binh, từ bốn hướng kéo đến bốn cửa trùng trùng điệp điệp. Có lẽ chuẩn bị
phá trận. Tức thời phân bổ các Tướng thống lĩnh quân binh trấn giữ ngũ hành
trận, chuẩn bị cho trận chiến quyết tử cao độ nhất.
Chủ
Soái Nguyên Dực ra lệnh:
In Đô Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ.
Tướng quân cùng hai phó nữ Tướng là La Ha, Tiên Ngung. Thống lãnh hai vạn quân,
chia làm chia làm năm đạo quân. Bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh.
Trấn thủ tại trung ương hành kim, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.
Lô Gô Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ.
Tướng quân cùng hai phó Tướng là Phô Rô, Cam Bô, thống lãnh hai vạn quân, chia
làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ tại
trung ương hành mộc, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.
Lê Anh Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ.
Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là Đoàn Minh, Hoàng Thi, thống lĩnh hai vạn
quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh,
trấn thủ Trung ương hành thủy, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.
Dương Điền Tướng quân nghe lịnh, có thuộc
hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là La Đôn, Kinh Hạ, thống lĩnh hai vạn
quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh,
trấn thủ Trung ương hành hỏa, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.
Lý Hiển Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ.
Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là Trịnh Đức, Mai Phi, thống lĩnh hai vạn
quân, chia là năm đạo quân, bộ binh, kỵ binh, xa binh, xạ binh, giáp binh, trấn
thủ Trung ương hành thổ, chuyển hóa bổ sung, hổ trợ, những đạo quân, kim - mộc
- thủy - hỏa, khi yếu hơn thế lực của địch, theo hiệu lịnh của trung ương tổng
đài, tuân lịnh.
Từ
thế trận ngũ hành, chuyển sang biến hóa thế trận ngũ hành, tức thời sát khí
trùng trùng, mây đen ngùn ngụt, cuồng phong chuyển động, kỳ ảo lạ kỳ.
Đây
nói về Sát Sát thống lĩnh quân Ân ở trên đài quan sát thấy ngũ hành trận trong
phút chốc biến hóa kỳ ảo như vậy, cũng phải kinh hãi. Liền hỏi Đạo Sĩ mặt xanh
râu dài:
Đạo Sĩ có biết phá trận ngũ hành nầy không?
Đạo
Sĩ mặt xanh râu dài chính là thanh sư, không những có pháp thuật mà còn biết
nhiều hiểu rộng. Thanh Sư nói:
Thưa Nương Nương, trận ngũ hành lợi hại là
do năm ngọn cờ chính điều khiển chỉ huy, tùy theo trình độ của người chi huy mà
lợi hại, nên khó mà đoán được.
Sát
Sát nói:
Ta đã quan sát thấy mỗi chi ngũ hành ước
lượng chỉ có hai vạn quân. Còn ta có tới ba vạn quân, số lượng hơn chúng quá
lớn ta ra lịnh đồng tấn công một lượt, chỉ cần phá vỡ một chi ngũ hành, thời
nhất định trận ngũ hành trận sẽ bị phá vỡ ngay.
Sát
Sát lấy làm đắc ý cho cách phá trận của mình, liền ra lịnh đồng loạt tấn công.
Đây
nói về Trung tâm hành kim, tín hiệu pháo lịnh đã bắn lên báo hiệu quân Ân bắt
đầu tấn công. Tức thời Trung ương hành kim trên đài quan sát năm màu cờ bắc đầu
chuyển động.
Nói
về Hồ Phiên, thống lãnh ba vạn quân, thấy quân binh Văn Lang thưa thớt, chẳng
có gì là lợi hại cả, ta chỉ cần năm nghìn kỵ binh, năm nghìn xạ binh, năm nghìn
bộ binh là đánh thủng vào Trung ương ngay. Liền sai Tướng Ung Beo chỉ huy năm
nghìn bộ binh ào ào xông vào trận. Khí thế tràn vào như nước lũ, bộ binh xông
đến đâu thời quân Văn Lang dạt ra đến đó, tiến sâu vào hơn dặm, hò hét dậy
trời. Tướng giặc Hồ Phiên cười ngất, ta cứ nghĩ ngũ hành trận lợi hại lắm,
chẳng qua cũng thế thôi. Bổng nghe chiêng trống nổi lên dạy trời, quân reo dậy
đất, mây đen cuồn cuộn, phủ tới, năm nghìn quân Ân không thấy đâu nữa, chỉ nghe
đao kiếm đinh tai nhứt óc.
Hồ
Phiên ra lịnh tức thời năm nghìn quân xạ tiển do Hốt Ma điều khiển ào ào xông
trận, quân binh lao vào như thác đổ, tìm quân dịch tấn công, nhưng không thấy
chi cả như lạc vào chốn hoang vu. Hốt Ma kinh hãi, đây là đâu sao kỳ lạ thế
nầy, trong lúc hoang mang thời bổng nghe chiêng trống dậy trời, thời thấy đội
quân thiết giáp trong mây đen xuất hiện cắt đôi năm nghìn quân xạ tiển. Hốt Ma
kinh hãi chưa biết phải làm sao thời thấy xuất hiện hai Tướng cỡi ngựa thiết kỵ
giáp lao nhanh tới chém Hốt Ma. Hốt Ma vì quá hoang mang sợ hãi hơn nữa một
Tướng khó địch lại hai Tướng, trúng liền hai đao đứt làm hai đoạn, quân Ân như
rắn không đầu, chỉ trong vòng chốc lác không còn một mạng.
Hồ
Phiên thấy tình thế không xong, liền ra lệnh kỵ binh xung trận. Phiêu Liêu,
điều khiển năm nghìn kỵ binh nhanh chóng lao vào nhập cuộc, không ngờ bị xa
quân những chiếc xe đầy chông sắt lao tới tấn công, làm cho đội kỵ binh hổn
loạn, xạ binh quân Văn Lang bắn tên ra như mưa, đội kỵ binh quân Ân chết thôi
là chết, thi nhau chạy thục mạng, thoát ra khỏi trận ngũ hành, chết hơn phân
nữa. Hồ Phiên tái mặt than trời khóc đất, không dám đưa quân vào trận nữa, coi
như đi tiêu hơn một vạn quân. Hồ Phiên bây giờ mới biết lời đồn quả không sai,
nước Văn Lang có ngũ hành trận vô cùng lợi hại.
Nói
về In Đô, Tiên Ngung, La Ha. Trấn thủ Tây ngũ hành, In Đô Tướng quân ở trên đài
quan sát ở Trung ương hành kim, chỉ huy năm đội quân ngũ kỳ, năm màu, trắng,
xanh, đen, đỏ, vàng. Tiên Ngung thống lĩnh hai đạo quân cờ trắng, cờ xanh. La
Ha, thống lĩnh hai đạo quân cờ đen, cờ đỏ, ở trên đài quan sát. In Đô Tướng
quân nhìn thấy quân Ân triển khai ba đạo quân, đạo bộ binh, đạo xạ binh, đạo kỵ
binh, mỗi đạo ước lượng năm nghìn người. In Đô nhìn thấy đội quân bộ binh tấn
công trước, liền phất cờ vàng, ra hiệu. Tiên Ngung, La Ha, thấy cờ hiệu trên
quan sát đài, liền tức tốc thu quân ẩn mình trong mây trận.
Đạo
quân bộ binh do Ung Beo thống lĩnh điều khiển, ào ào như nước lũ tiến vào trận,
không gặp trở ngại nào cả thấy toàn là mây đen cuồn cuộn, Đạo quân cứ tiến sâu
vào vùng đất hoang vu. Ung Beo vô cùng kinh hãi, liền ra lệnh cho Đạo quân lui
trở ra. Khi ấy trên quan sát đài, đội kỳ cờ trắng, cờ xanh, xuất hiện theo thế
bao vây. Tức thời La Ha nhanh chóng phất cờ ra lịnh hai Đạo quân, nhanh chóng
lao ra bao vây, quân Ân vô cùng kinh hãi ra sức chống trả, cùng lúc ấy trên đài
quan sát In Đô tự tay phất cờ vàng, tức thời hai nghìn binh thiết giáp, từ
Trung ương hành kim nhanh chóng ào ào lao ra chém giết quân Ân như chém chuối
loáng cái là chết sạch. Cờ trắng, cờ xanh, trên đài quan sát biến mất, thay vào
đó là cờ đỏ, giáp binh, hành hỏa bao vây, cờ vàng thiết giáp kỵ binh hành thổ
tấn công.
Nói
về Hốt Ma nghe trận chiến rền trời rền đất nhưng không thấy vì mây đen cuồn cuộn
che chắn tầm nhìn, liền điều động năm nghìn quân xạ tiển xông vào hiệp lực tấn
công. Đội quân xạ tiển tiến sâu vào không thấy Đạo quân bộ binh đâu cả, vô cùng
kinh hãi chưa biết phải tiến vào đâu, thời nghe chiêng trống dậy trời. Đội quân
áo giáp ào ào hiện ra bao vây, lao tới chém Đạo quân xạ tiển quân Ân tới tấp.
Hốt Ma kinh hãi ra lệnh lập trận xạ tiển chống trả lại, nhưng không còn kịp
nữa, Đạo quân thiết giáp từ sau đánh tới vó ngựa rền trời, lao vào chém quân Ân
như chém chuối, chỉ trong chốc lác quân Ân chết sạch, Hốt Ma bỏ mạng sa trường.
Nói
về Phiêu Liêu, Tướng giặc được lịnh tức thời điều động năm nghìn kỵ binh, tức
tốc lao vào trận, xáp chiến, kỵ binh
quân Ân như cuồng phong ào ào bay vào trận. Khi ấy trên đài quan sát cờ đen xa
quân Đạo quân xe đầy chông sắt, xích sắt, theo thế cắt đôi quân địch, cùng lúc,
cờ trắng, cờ xanh, cờ đỏ, cờ đen, đồng loạt xuất hiện tấn công. Nói về Phiêu
Liêu, thống lãnh kỵ binh xông vào trận, thời không thấy Đạo quân bộ binh, Đạo
quân xạ binh đâu nữa, mà chỉ thấy quân Văn Lang trùng trùng điệp điệp ẩn hiện
trong mây đen, di chuyển ẩn hiện một cách kỳ lạ, chưa biết tấn công vào đâu,
thời nghe xe cộ duy chuyển đùng đùng, lao ra cắt đôi kỵ binh quân Ân, tức thời
bốn phương tám hướng đồng loạt tấn công. Đạo quân kỵ binh Ân chống trả không
nổi, bỏ mạng vô số kể. Phiêu Liêu kinh hãi cùng kỵ binh sống sót lao ra khỏi
trận, kinh hồn bạc vía.
Về
sau có thơ rằng:
Tưởng rằng phá trận dễ như không
Nào hay bỏ mạng lấp vùi chôn
Ngũ hành trận pháp ôi huyền bí
Biến ảo vô cùng giặc khiếp kinh
Hơn vạn giặc Ân trong nháy mắt
Vùi chôn thân
xác chẳng còn tên
Kinh hồn bạc vía quân ăn cướp
Bỏ mạng tàn đời lũ yêu tinh
Nghe chiến trận gươm đao gào thét
Cõi trời Nam đau xót muôn dân
Hỡi giặc Ân nầy hỡi giặc Ân
Cớ sao mi lại chiếm xâm cõi bờ
Giờ đến lúc từ già đến trẻ
Hãy đứng lên chống trả quân thù
Đã chung dòng máu đồng bào
Tay gươm tay giáo quyết nào tử sanh.
TỬ CHIẾN
Nói
về Lô Gô, Phô Rô, Cam Bô. điều khiển hai vạn quân binh, trấn giữ hành mộc, nơi
Trung ương hành mộc. Phô Rô, thống lĩnh hao Đạo quân, cờ trắng, cờ xanh, Cam
Bô, thống lĩnh hai Đạo quân, cờ đen, cờ đỏ, trên đài quan sát, Lô Gô thấy từ xa
từ nơi đại quân Ân ba Đạo quân cùng một
lúc xuất phát, Đạo quân bộ binh, Đạo quân xạ binh, đạo quân kỵ binh, mỗi Đạo
quân năm nghìn quân, đồng loạt tấn công Đông ngũ hành, với khí thế như cuồng
phong vũ bão, quân Ân ào ào lao vào trận.
Ỷ mình cậy thế quân đông
Ào ào lao tới
phá tan ngũ hành
Ba đạo quân cuồn cuộn xông vào
Gươm, đao, giáo, mác, sáng ngời khiếp kinh.
Lô
Gô nhìn thấy quân giặc tấn công một lúc ba Đạo quân như vậy, liền phất cờ cho
bốn Đạo quân ẩn sâu vào trận, phất cờ phong trận lên hư không, tức thời từ nơi
đài cao Trung ương ngũ hành mây đen, mây trắng cuồn cuộn bay ra phủ kín bốn Đạo
quân Văn Lang.
Đây
nói Võ Vu, đã từng nghe tiếng ngũ hành trận vô cùng lợi hại, nếu không đưa quân
đánh tốc chiến, tốc thắng, liên kết ba Đạo quân với nhau, thời khó mà phá được,
liền ra lệnh cho ba Đạo quân cùng một lúc tiến vào, Lỗ Đại Đạo quân kỵ binh,
Tấn Beo đạo quân xạ binh, Ngụy Hàn Đạo quân bộ binh. Ba Đạo quân ào ào xông vào
trận, thời như lạc vào vùng đất mênh mông mây đen, mây trắng, cuồn cuộn, không
thấy một bóng người, quân Ân vô cùng sợ hãi không biết quân địch ở phương nào
mà tấn công, ba Đạo quân Ân bổng thấy một Đạo quân xuất hiện, tấn công chúng,
chúng liền hiệp lực lao tới tấn công, hai bên giao tranh giữ dội, quân Văn Lang
chống trả không lại liền bỏ chạy, quân Ân liền đuổi theo, bổng quân Văn Lang
biến mất. Quân Ân vô cùng kinh hãi, chưa kịp biết phải làm sao, thời nghe chiêng
trống dậy trời, tên bắn ra như mưa.
Lỗ
Đại, Tấn Beo, Ngụy Hàn, la lớn, rút lui, rút lui, chúng ta đã lọt vào ổ phục
kích, quân Ân rối loạn, quân Văn Lang dốc toàn lực lượng phản công, chớp
nhoáng, sấm sét, từ bốn phương tám hướng đánh tới tấp, quân Ân đạp lên nhau mà
chạy. Lỗ Đại, Tấn Beo, Ngụy Hàn, ra sức thoát ra khỏi trận nhưng không biết cửa
ra ở đâu, bằng phóng ngựa hầu tìm đường tẩu thoát, Lỗ Đại bổng nghe một tiếng
quát to như sấm, ta chờ ngươi ở đây đã lâu, nộp mạng đây, tức thời từ trong mây
trắng một người xuất hiện, oai phong lẩm liệt, múa trường thương người ngựa lao
tới đâm Lỗ Đại một nhác. Lỗ Đại múa giáo chống đở, hai bên đánh nhau mấy hiệp,
Lỗ Đại quày ngựa bỏ chạy. Tướng Văn Lang quát, chạy đâu cho thoát, tức thời bắn
một phát, Lỗ Đại trúng tên độc nhào xuống ngựa bỏ mạng, người bắn chết Lỗ Đại
chính là Phô Rô.
Nói
về Tấn Beo không ngờ ngũ hành trận lợi hại như vậy, vào trận thời được nhưng ra
thời không biết đường, đang phi ngựa tìm đường tẩu thoát, thời thấy đội quân
thiết giáp chận đường, liền quày ngựa chạy ngược trở lại, nào ngờ hai bên tên
bắn ra như mưa, Tấn Beo trúng tên khắp mình bỏ mạng.
Nói
về Ngụy Hàn, đằng sau kỵ binh rượt đuổi, trước mắt là xạ binh bao vây, Ngụy Hàn
không còn đường nào khác là thúc ngựa lao vào xạ binh, không ngờ thoát ra khỏi
trận, quân Ân ào ào xông tới chận đứng quân Văn Lang không cho truy sát Ngụy
Hàn. Ngụy Hàn trúng tên khắp mình nhưng chưa chết hẳn, nói với Võ Vu rằng, quân
ta chết hết rồi. Ngụy Hàn nói xong thời tắc thở, hồn chầu âm phủ. Võ Vu kinh hãi,
không dám đưa quân vào phá trận nữa.
Nói
về Lô Gô ở trên đài quan sát, thấy quân Ân đã lọt hết vào trận, tức thời phất
cờ trận dụ quân Ân sa vào bẫy lưới phục kích, quân Ân không hiểu sự biến ảo của
ngũ hành, rược đuổi quân Văn Lang, thế là quân Ân bị tấn công tới tấp, dẩn đến
rối loạn. Lô Gô liền phất cờ hiệu vàng, tức thời đội quân thiết giáp từ Trung
ương hành mộc kéo ra chận đứng cửa ra, quân Ân kinh khiếp rối loạn tháo chạy
trở ra, liền bị Đạo quân thiết giáp Văn Lang đánh bật trở vào, không biết nơi
nào là đường trở ra nữa, chạy toán loạn bị quân Văn Lang hốt sạch không còn một
mạng.
Về
sau có thơ rằng:
Ngũ hành trận pháp của Ông Cha
Đã từng vùi dập giặc can qua
Lẫy lừng trận pháp rền sông núi
Khiếp vía hồn kinh lũ yêu ma.
Đây
nói về Hồ Man Quân, cùng Hồ Mị Hoa, thấy ngũ hành trận sát khí trùng trùng,
nhất là nơi trung tâm ngũ hành trận mây đen, mây trắng, cuồn cuộn, như có một
quyền lực vô tận, làm cho ngũ hành trận biến hóa khó lường.
Hồ
Mị Hoa bằng nói với Hồ Man Quân rằng:
Khi con học Đạo với thầy con, thầy con có
nói nước Văn Lang có ngũ hành trận vô cùng lợi hại. Nhưng lợi hại hơn nữa là
còn tùy thuộc vào cơ trí của người điều khiển, không nên xem thường, phải hết
sức bình tỉnh mới phá được, chỉ cần phá được một phương ngũ hành, thời bốn phương
ngũ hành kia tức thời yếu đi, nhờ đó quân ta mới phá tan ngũ hành nhanh chóng.
Hồ
Cổn Quân nói:
Để con tiên phong phá trận cho, bằng điểm
một vạn binh mã, bộ binh, kỵ binh, xạ binh.
Hồ
Mị Hoa nói:
Cháu thống lĩnh hai vạn quân theo sau yểm trợ.
Hồ
Man Quân lấy làm yên lòng vì hiểu rõ tài phép của Hồ Mị Hoa.
Nói
về Dương Điền, La Đôn, Kinh Hạ, thống lĩnh quân binh trấn giữ phương Nam hành
hỏa. Trên đài quan sát, Dương Điền thấy quân Hồ đông như kiến, từ đại quân tách
ra một đạo quân ước lượng một vạn quân, bộ binh, xạ binh, kỵ binh, nhanh chóng
xông vào trận. Tức thời trên đài quan sát xuất cờ trắng, cờ xanh hiệu lịnh tấn
công, chậm đứng thế mạnh ồ ạc tấn công quân địch. Thế là gươm đao giáo mác,
quân reo ngựa hí dậy trời, hai bên xáp chiến long trời lở đất.
Thế là trận chiến long trời
Ngựa người lao tới ầm ầm kinh thiên
Giáo gươm dậy núi dậy non
Chiêng rền, trống dội bụi bay mịt mù
Quân Ân ỷ mạnh tràn vào
Sóng người cuồn cuộn khác nào thác tuôn
Trên đài cờ phất rút lui
Văn Lang quân tướng thi nhau ẩn mình
Quân Hồ rượt đuổi ầm ầm
Nào hay chẳng thấy quân thù nơi đâu
Quân Hồ kinh hãi, hãi kinh
Lạc vào ổ phục quân binh dậy trời.
Đây
nói về quân Văn Lang, chiến đấu quyết liệt với quân Ân giả đò thua bỏ chạy,
quân Ân rượt đuổi theo ầm ầm, chỉ trong vòng chớp mắt quân Văn Lang biến mất,
mây đen mây trắng cuồn cuộn bao phủ. Quân Hồ lạc mất phương hướng không biết
quân địch ở chỗ nào, đang hoang mang kinh hãi. Thời nghe chiêng trống dậy trời
quân reo dậy đất, tên từ bốn phương tám hướng bắn như mưa. Quân Hồ trúng tên
chết la liệt, hổn loạn đạp lên nhau mà chạy, chạy chỗ nào cũng bị quân Văn Lang
nhưng đội quân ma quỹ, bám theo chém giết ầm ầm.
Nói
về Hồ Cổn, thấy quân Văn Lang chống trả không lại bỏ chạy, liền thúc quân lao
theo chém giết hò hét dậy trời. Bổng thấy mây đen, mây trắng, cuồn cuộn kéo tới
tức thời quân Văn Lang biến mất. Hồ Cổn kinh hãi không biết địch ở nơi nào, lại
lạc mất phương hướng không biết đâu là Đông Tây Nam Bắc, liền ra lịnh thối lui,
nhưng không còn kịp nữa, bốn phương tám hướng chiêng trống dậy trời quân reo
dậy đất tên bắn ra như mưa, chết thôi là chết.
Hồ
Cổn tìm đường tẩu thoát nhưng nơi nào cũng toàn là quân Văn Lang tên bắn xối
xả. Hồ Cổn cùng tốp kỵ binh phá vòng vây thoát ra, chạy một hơi nhưng không
thấy lối ra đâu cả kinh hoàng khiếp vía, bổng nghe tiếng quát chạy đâu cho
thoát tức thời kỵ binh thiết giáp xuất hiện bao vây. Kỵ binh quân Hồ liều mình
chống trả, nhưng chống trả làm sao nổi bỏ mạng lớp lớp. Hồ Cổn liều mình phá
vòng vây bỏ chạy thục mạng, không biết là mình chạy đến nơi nào. Bổng nghe
tiếng quát chạy đâu cho thoát, tức thời ba người xuất hiện chận đầu. Hồ Cổn
càng thêm khiếp vía, người ở bên phải nói để thuộc hạ đưa tên nầy về chầu âm
phủ. Tức thời múa đao thúc ngựa lao tới chém Hồ Cổn một đao như trời giáng. Hồ
Cổn múa giáo chống đở, choang đinh tai nhứt óc. Hồ Cổn mạnh vô cùng, không dễ
gì một đao mà hạ gục được. Người bên
trái thấy thế nói, tên Tướng giặc nầy quả là lợi hại để thuộc hạ lao ra
hợp sức hạ gục cho rồi. Tức thời múa đao thúc ngựa lao ra chém tới tấp vào Hồ
Cổn. Hồn Cổn võ nghệ cao cường khó mà hạ gục được. Vị Tướng Văn Lang thấy thế
liền phi ngựa lao vào xáp chiến Hồ Cổn đánh không lại ba người đành bỏ mạng.
Nói
về Hồ Mị Hoa, chỉ huy hai vạn quân theo sau yểm trợ, vừa lao vào trận chiến
thời không còn nhìn ra phương hướng nữa, mây đen, mây trắng, cuồn cuộn. Bổng
thấy quân binh hổn loạn, Hồ Mị Hoa thét lớn tất cả đều không được hổn loạn. Hồ
Mị Hoa giật cả mình, khi thấy đạo quân thiết giáp không biết từ đâu kéo ra cắt
đôi đạo quân của mình, làm cho đạo quân rối loạn. Hồ Mị Hoa thúc quân quay
ngược trở lại chống trả. Không ngờ từ phía sau quân Hồ, quân Văn Lang như cuồng
phong vũ bão từ phía sau đánh tới. Trước mặt quân địch, sau lưng quân địch,
đánh như mưa trút, quân Hồ tá hỏa, thi nhau ngã gục.
Nói
về quân Hồ bị cắt đôi không còn tiếp ứng với nhau được nữa, bị đạo quân thiết
giáp đánh bật lui ra khỏi trận địa, còn một nữa trong trận địa hổn loạn, bị
quân Văn Lang chém giết tơi bời. Hồ Mị Hoa không biết đâu là đường ra mây đen,
mây trắng cuồn cuộn che chắn hết cả tầm nhìn, chiêng trống dậy trời, quân reo
dậy đất chỗ nào cũng có quân Văn Lang. Hồ Mị Hoa giờ đây mới biết ngũ hành trận
pháp vô cùng lợi hại, phải phá tan mây đen, mây trắng, mới thấy được phương
hướng thoát ra, liền hóa phép. Không ngờ càng hóa phép thời mây đen, mây trắng,
cuồn cuộn phủ tới càng nhiều. Hồ Mị Hoa khiếp quá hóa ra trận cuồng phong thúc
con Thiên Lý Mã vượt qua đầu quân binh lao ra khỏi trận.
Đây
nói về Hồ Man Quân, trong lòng hồi hộp không biết có phá được trận ngũ hành
không, lúc nào cũng nghe đao kiếm dậy trời, bổng thấy một bóng ngựa từ trong
trận bay ra, thời nhận ra ngay là Hồ Mị Hoa.
Hồ
Man Quân thúc ngựa lao tới hỏi:
Quân ta thế nào?
Hồ
Mị Hoa chưa hết kinh hãi nói:
E chết hết trong trận rồi.
Hồ
Man Quân nghe Hồ Mị Hoa nói thế, điến cả người không biết Hồ Côn chết sống ra
làm sao.
Đây
nói về Dương Điền ở trên đài quan sát thấy quân Hồ xông vào trận đông như kiến,
nào là bộ binh, nào là xạ binh, nào là kỵ binh, sức mạnh dời non lấp biển, khí
thế hừng hực. Dương Điền tức thời ra hiệu lịnh phất cờ trắng, cờ xanh theo thế
xáp chiến. La Bôn liền điều khiển đạo quân bộ binh, xạ binh, cùng đội quân kỵ
binh lao ra chận đánh quân hồ, dậy trời dậy đất, xáp trận một hồi quân hồ mạnh
quá. Quân Văn Lang được lệnh rút lui. Quân Hồ thừa thắng xông lên ào ào rượt
đuổi quân Văn Lang như cuồn phong vũ bão. Quân Văn Lang được lệnh tẻ ra làm hai
theo thế bao vây ẩn mình trong mây trận. Quân Hồ thấy quân Văn Lang biến mất
trong mây trắng, mây đen, vô cùng kinh hãi.
Trên
quan sát đài, cờ hiệu lịnh trắng, đen, xanh, đỏ, bốn phương tám hướng tấn công.
Tức thời La Đôn, Kinh Hạ, điều khiển bốn đạo quân, chia ra làm hai, thành tám
đạo quân đồng loạt tấn công, từ bốn phương tám hướng, tên bắn ra như mưa, quân
Hồ rối loạn chạy chỗ nào cũng bị quân Văn Lang như thiên la địa võng phủ đánh.
Trên
quan sát đài, Dương Điền thấy quân Ân lớp trước lớp sau xông vào trận càng lúc
càng đông như kiến, liền phất cờ vàng hiệu lịnh, theo thế cắt đôi quân địch,
chận đứng không cho quân giặc rút lui, chận đứng không cho quân giặc xông vào
trận. Tức thời đạo quân chủ lực thiết giáp từ trung ương hành hỏa do tướng Đổ
Trung Pha, nhanh chóng bọc hậu cắt đứt quân Hồ trong không cho ra, ngoài không
tiến vào được, đội quân thiết giáp chủ lực, là đội quân phá sức mạnh của địch,
quân Hồ lùi ra không được, tiến vào không xong bị quân Văn Lang xơi sạch.
Sau
có thơ rằng:
Hơn nhau chỉ một nước cờ
Chuyển xây thế trận diệt loài ngoại xâm
Hơn nhau chủ động điều quân
Làm cho quân giặc hết mong sống còn
Ngũ hành khiếp vía quân thù
Xác phơi như núi hãi hùng ngoại xâm.
QUYẾT TỬ
Đây
nói về Lê Anh, Đoàn Minh, Hoàng Phi, được lịnh trấn giữ hành thủy. Lê Anh trên
đài quan sát, thấy quân Ân trùng trùng lớp lớp rồi tách ra làm ba đạo quân, do
Sát Sát chỉ huy, sai Tào Côn, làm tướng tiên phong phá trận. Tào Côn phất cờ
đạo quân bộ binh ào ào xông vào trận, xáp chiến với quân Văn Lang, rồi có hiệu
lịnh lui quân.
Đạo
quận xạ tiển lao vào bắn quân Văn Lang xối xả, quân Văn Lang giã thưa bỏ chạy,
quân Ân không đuổi theo mà lui quân ra sau, nhường cho quân kỵ binh lao vào
nhanh như gió tấn công quân Văn Lang xối xả, rồi lui ra cứ như thế quân Ân tiến
sâu vào trận địa, từng bước từng bước phá tan ngũ hành trận, quân Văn Lang
không còn cách nào hơn là xông ra tử chiến, thế là trận đánh xáp lá cà, nhờ mây
trận che chắn nên quân Văn Lang ít thiệt hại hơn, trận chiến cứ thế xãy ra cả
hàng giờ, bất phân thắng bại.
Nói
về Sát Sát thấy quân Ân chưa làm gì được quân Văn Lang, liền điều động năm
nghìn quân chủ lực, tiến vào trận. Tức thời gặp phải đạo quân áo giáp xạ tiển
chận đánh, đội quân chủ lực quân Ân đánh trả quyết liệt, hai bên tử nạn, thương
vong vô số. Sát Sát vô cùng tức giận làm phép chỉ kiếm, tức thời giông tố nổi
lên ầm ầm đánh vào quân Văn Lang, tức thời mây đen, mây trắng cuồn cuộn chống
trả. Sát Sát vô cùng kinh hãi, niệm chú hóa phép yêu tinh quỹ dữ hiện ra, tức
thời mây trắng, mây đen hóa ra sấm sét yêu tinh quỹ dữ khiếp vía tan biến hết.
Nói
về đạo quân tinh nhuệ quân Ân quả nhiên lợi hại đánh bật đạo quân áo giáp. Mây
trắng mây đen, bị áp lực thần thông Sát Sát làm cho giảm sút uy lực, vì thế
quân Văn Lang cũng giảm sút đi sự biến
hóa, quân Ân vì thế mà tấn công dữ dội, lớp nầy ngã xuống lớp khác xông lên,
quân Văn Lang ít quân hơn chỉ nhờ vào trận pháp ngũ hành biến hóa theo tiêu
diệt kẽ thù.
Sát
Sát hết làm phép nầy tới làm phép kia, quyết phá tan mây đen mây trắng, đang
trong lúc làm phép thời nổi lên tiếng quát như sấm: Yêu nữ kia nạp mạng đi. Tức
thời một đạo quân thiết giáp đội quân tinh nhuệ nhất của đạo quân Văn Lang, từ
trung ương ngũ hành, ào ào phi ra tấn công vào đội quân tinh nhuệ thiết kỵ binh
quân Ân. Thiết kỵ binh quân Ân ra sức chống trả, nhưng không nổi sắp bị tiêu
diệt đến nơi. Sát Sát kinh khiếp thúc quân phá vòng vây đánh bật đạo quân áo
giáp lao ra khỏi trận, thấy Tào Côn mình đầy máu bị thương khá nặng, thoát ra
khỏi trận trước mình. Sát Sát nhìn lên trời thở dài thế là đi tiêu gần hai vạn
quân.
Nói
về quân Văn Lang tuy thắng trận nhưng cũng thiệt hại gần hai vạn quân, chỉ còn
hơn tám vạn quân, định thừa thắng xông ra tiêu diệt quân Ân, nhưng thấy quân Ân
còn đông quá, khó mà đánh cho lại, bằng cố thủ trong trận ngũ hành. Quân Ân
cũng không dám tấn công nữa, chỉ bao vây bốn cửa một lúc một thêm chặt.
ĐẠI PHÁ QUÂN VĂN LANG
Đây
nói về cùng lúc trận chiến cánh Tây quân Ân do Sát Sát chỉ huy, thời cánh Đông
Ân Mao Vương, cùng vợ hai là Nghịch Phong sau khi thắng trận giết chết Cao Sơn
một tướng kỳ tài của quân Văn Lang, thời lấy làm hả dạ, vì đã trả thù được cho
con là Mao Lợi cùng Tây Đô, Tào Hổ, sau
đó thời lên kế hoạch đánh phá trận ngũ hành tiêu diệt quân Văn Lang.
Trong
lúc đang bàn thời có quân vào báo:
Có Hung Đa Di, Hung Quân Liệt đến.
Ân
Mao Vương cho mời vào. Hung Đa Di, Hung Quân Liệt sau khi diện kiến Ân Mao
Vương thời kể lại tất cả bị quân Văn Lang đánh bất ngờ, thua đau thua đớn,
thiệt hại hơn một nữa số quân.
Ân
Mao Vương, Nghịch Phong nghe qua lấy làm kinh hãi nói:
Quân Văn Lang hùng mạnh đến thế sao?
Hung
Đa Di nói:
Chúng thần cho người dọ thám thời mới biết
quân Văn Lang chỉ có 10 vạn quân mà thôi.
Ân
Mao Vương nghe xong lấy làm kinh ngạc:
Chỉ có 10 vạn quân mà đánh tiêu 30 vạn quận,
mà toàn là những quân chiến mã thiện chiến, tung hoành trên thảo nguyên, từ
phương Bắc đến phương Nam.
Chuyện
nầy nếu không phải là hai Tướng quân con của Hung Nô Vương nói thời khó mà tin
được. Hung Đa Di, Hung Quân Liệt nói:
Nếu không chủ quan xem thường quân Văn Lang,
thời quân Văn Lang sẽ không bao giờ đánh bại một cách dễ dàng như thế được, dù
cho đó là lực lượng tương đương với nhau.
Ân
Mao Vương nói:
Thua keo nầy gầy lại keo khác, mau về nói
với Hung Nô Vương mau đến đây bàn kế tiêu diệt quân Văn Lang.
Hung
Đa Di tức tốc lên đường, không bao lâu thời Hung Nô Vương đến, hai bên chào hỏi
với nhau. Ân Mao Vương liền vào đề:
Một trận chiến nầy nếu chúng ta thắng, thời
không chỉ chúng ta nuốt Bắc Văn Lang, mà Trung Văn Lang, cho đến cả Nam Văn
Lang, tha hồ mà hưởng sung sướng, tha hồ mà làm bá chủ, phương Bắc cũng phải
khiếp sợ chúng ta.
Hung
Nô Vương hỏi:
Kế sách đó bằng cách nào?
Ân
Mao Vương nói:
Tấn công phá ngũ hành trận, tiêu diệt đại
quân chủ lực Văn Lang, một trận pháp vô cùng lợi hại của nước Văn Lang, nếu phá
được thời quân Văn Lang không còn dựa vào đâu để đối địch lại chúng ta. Nếu
Hung Nô Chúa Vương chịu đánh phá một cánh Đông ngũ hành, thời Ân Mao Vương ta
sẽ hiến kế.
Hung
Nô Vương nói:
Cứ đưa ra kế sách, Chúa Vương tôi quyết thực
hiện theo.
Ân
Mao Vương nói:
Chúa Vương chỉ cần năm vạn quân chịu trách
nhiệm tấn công vào cánh Đông hành mộc ngũ hành trận, còn bao nhiêu quân thời
phục kích, không được phục kích nơi đồi Mục Linh, vì phục kích nơi đồi Mục
Linh, quân Văn Lang phát hiện bao vây đánh hỏa công ngay, vì lúc nầy trời có
nắng, lại có gió to. Quân Văn Lang sẽ đi bọc qua đồi Mục Linh trong đêm đến Kinh
Đô đánh cướp trại chúng ta. Khi nghe chúng ta dồn hết lực lượng công phá trận
ngũ hành, thời chúng bí mật bất ngờ đốt phá doanh trại, phá hủy lương thực
chúng ta, làm cho chúng ta hoang mang tinh thần đi đến hồn loạn, tức thời chúng
đánh từ sau đánh tới, ở trong đánh ra, chỉ cần tiêu diệt được một cánh quân
chúng ta, thời chúng tức tốc kéo quân bao vây từ sau cánh Đông đánh tới, trong
đánh ra, sau đánh tới tiêu diệt mất hai cánh quân chỉ còn nước là bỏ chạy mà
thôi, chúng thừa thắng hiệp lực với các cánh quân Châu Phủ, truy sát bại binh
chúng ta, thời giất mộng xâm chiếm Văn Lang coi như chấm hết, không khéo nhân
cơ hội đó quân binh nhà Chu kéo đến chiếm mất ba nước chúng ta, thế là chúng ta
tàn đời.
Hung
Nô Vương nghe xong vô cùng kinh hãi. Ân Mao Vương lại nói tiếp:
Để thắng được trận nầy, phải hết sức bí mật,
cho năm vạn quân phục kích, theo đường bọc của quân Văn Lang, bọc qua đồi Vạn
Linh, đến Kinh Đô, phục kích cách xa đồi Vạn Linh hơn bảy dặm, chờ cho quân Văn
Lang qua khỏi đồi Vạn Linh, chúng không còn cảnh giác cao độ. Khi quân Văn Lang
sa vào ổ phục kích chúng ta, thời đồng loạt ra lịnh tấn công, quân Văn Lang
không phải là quân hổn tạp tầm thường chúng cố chống trả lui trở lại nhưng
không trở lại thành Xích Linh, vì quân Văn Lang sợ chúng ta phục kích chận
đường rút lui của chúng mà tiêu diệt, mà chạy về Huyện An Giao chúng ta chờ đợi
chúng đến mà tiêu diệt.
Hung
Nô Vương nghe xong cho là diệu kế, tức tốc bí mật triển khai lực lượng, quân
Văn Lang tuy có đội thám thính giỏi, nhưng cũng không phát hiện được gì, vì
quân Hung Nô đánh lừa, thua chạy đóng trại bên kia sông, thật ra đó chỉ là
doanh trại giả, mục đích đánh lừa quân thám thính Văn Lang mà thôi, cứ nghĩ
quân Hung Nô thua trận cố thủ bên kia sông chưa hành động gì cả, ngày nào cũng
quân reo ngựa hí, như đang tập trận.
Đây
nói về Ân Mao Vương lập đàn cầu sư phụ. Nói về Hồ Nhất Tinh, Hồ Nhị Yêu, Hồ Tam
Quỉ đang ngồi tu thiền luyện khí, bổng nghe hương trầm thoảng qua lấy làm lạ
liền bấm tay độn quẻ, thời biết Ân Mao Vương đang cầu liền tức tốc đằng vân bay
đến. Nghịch Phong xem thường trận ngũ hành nên không cầu sự phụ giáng lâm.
Lại
nói về Nguyên Minh cùng các Tướng Lĩnh vô cùng thương tiết Cao Sơn vị Tướng tài
ba của quân Văn Lang, và cũng vô cùng kinh hãi thần thông pháp thuật của tướng
nữ giặc Ân, quân Ân đã nhiều lần đến khiêu chiến, nhưng quân Văn Lang chỉ cố
thủ trong doanh trại ngũ hành, ngày đêm tập luyện củng cố trận pháp, từ nơi
trận pháp ngũ hành xuất hiện mây đen, mây trắng, càng nhiều, lại có những tia
hào quang phát lên từ trung tâm ngũ hành, cũng như bốn trung tâm, Kim - Mộc -
Thủy - Hỏa.
Nguyên
Minh, Nguyên Dực là hai anh em sanh đôi, cháu nhiều đời của quan Lạc Tướng
Nguyên Đô, ở Bộ Ninh Hải, Châu Đông Hải, Huyện Đông Châu, khi còn nhỏ hai anh
em đang chơi, bổng một trận gió cuốn đi đâu mất, sau 10 năm trở lại, từ đó nổi
tiếng là có tài hay phép lạ, võ nghệ cao cường. Nguyên Dực và Nguyên Minh được
một Đạo Tiên râu tóc bạc phơ đưa ra biển đảo dạy cho võ nghệ cùng trận ngũ
hành.
Khi
Nguyên Dực, Nguyên Minh học thành tài, thời vị Đạo Tiên ấy nói:
Ta là Cao Tổ thời dựng nước, vì có nhân
duyên với hai con nên ta xuống trần, truyền dạy võ nghệ cùng trận ngũ hành sau
nầy đánh giặc Ân cứu nước.
Nói
xong Cao Tổ đưa cho Nguyên Dực, Nguyên Minh, mỗi người một lá cờ Thần, gọi là
cờ trận, truyền dạy những pháp chú, xong đâu vào đấy, vị Đạo Tiên nói:
Hai con hãy nhắm mắt lại để ta đưa hai con
trở lại quê nhà.
Nguyên
Dực, Nguyên Minh, nghe theo lời dạy nhắm mắt lại chỉ nghe gió thổi ù ù bên tai,
chừng không còn nghe gió thổi nữa, liền mở mắt ra thời ở trước sân nhà rồi. Cả
nhà thấy Nguyên Minh, Nguyên Dực trở về, vui mừng khôn xiết, nhất là mẹ của
Nguyên Dực, Nguyên Minh, nhìn thấy con khôn lớn, bà không cầm được giọt nước
mắt, vì thương nhớ con bà già đi trước tuổi, sự đoàn tụ ấy không bao lâu thời
mẹ mất, từ đó Nguyên Dực, Nguyên Minh văn ôn võ luyện chờ ngày lên đường giúp
nước.
Nguyên
Minh ngồi trầm tư nhìn lá cờ thần mà nhớ lại chuyện xưa, tất cả đều hiện ra
trước mắt như mới hôm qua, Nguyên Minh nghĩ: Non sông Tổ Quốc, và biển đảo, nó
Thiêng Liêng làm sao.
Nguyên
Minh đang trầm tư hồi tưởng chuyện xưa, thời có quân vào báo:
Bẩm Chủ Soái, quân Ân đã triển khai lực
lượng đánh chúng ta.
Nguyên
Minh tức thời triệu tập các quan Tướng, lên đài quan sát xem tình hình quân
giặc, thấy liên hoàn doanh trại giặc Ân đang huy động toàn lực lượng chuẩn bị
công phá đoanh trại ngũ hành quân Văn Lang.
Đa
Kế nói:
Bẩm Chủ Soái, hãy viết ngay mật thư gởi cho
Cao Hải Đô Thống Tướng Quân, đang ở thành Xích Linh, sau khi triệt phá quân
Hung Nô, với kế sách đánh bọc hậu đốt phá doanh trại, cũng như lương thực của
giặc Ân. Khi quân Ân đã dốc toàn lực lượng tấn công chúng ta.
Và
đúng như vậy chỉ mấy ngày sau thời quân Ân triển khai lực lượng bao vây doanh
trại quân Văn Lang từ bốn hướng.
Nói
về Ân Mao Vương lập đài cầu ba sư phụ, không bao lâu thời Hồ Nhất Tinh, Hồ Nhị
Yêu, Hồ Tam Quỉ, đến. Ân Mao Vương, Nghịch Phong tiếp đón lạy tạ, xong đâu vào
đấy.
Ân
Mao Vương mời ba sư phụ ngồi ghế cao, rồi thưa rằng:
Con cầu ba sư phụ đến đây giúp con phá trận
ngũ hành, chỉ cần phá tan trận ngũ hành nầy thời con nhất định chiếm lấy được
nước Văn Lang.
Hồ
Nhất Tinh nói:
Trận ngũ hành phương Nam không giống như
trận ngũ hành phương Bắc. Trận ngũ hành phương Nam vô cùng lợi hại, nhất là lá
cờ trận ngũ hành. Ta có đi ngang qua cánh Tây, thấy Sát Sát thất bại khi phá
trận ngũ hành, và đang huy động toàn lực lượng, hợp lực cùng quân Hồ, quyết phá
trận cho bằng được. Sát Sát đang lập đàn cầu sư phụ đến giúp đở.
Hồ
Nhị Yêu nói:
Trận ngũ hành ở phương Nam, không những lợi
hại ở lá cờ trận, mà còn lợi hại biến hóa binh pháp ở người điều khiển trận
địa.
Hồ
Tam Quỉ nói:
Như vậy muốn phá trận ngũ hành, thời phải
theo hai phương án: Phương án thứ nhất là phá tan pháp trận Uy Linh của cờ
trận. Phương án thứ hai là phá tan binh trận, có như vậy mới thành công được.
Hồ
Nhất Tinh nói:
Ta chịu trách nhiệm đánh phá Trung Ương.
Hành thổ đài chính nơi có lá cờ trận, cắm trên cao tần năm của đài quan sát,
nơi cờ trận phát ra uy lực vô cùng tạo ra mây đen, mây trắng.
Hồ
Nhị Yêu nói:
Ta chịu trách nhiệm đánh vào cờ trận trung
tâm hành kim, phá tan sức mạnh của kim lệnh, tạo ra ảo giác, của hành trận.
Hồ
Tam Quỉ nói:
Ta chịu trách nhiệm đánh vào cờ trận trung
tâm hành mộc, phá tan sức mạnh ảo giác của trận khí.
Hồ
Nhất Tinh nói:
Ân Mao Vương, chịu trách nhiệm đánh vào cờ
trận trung tâm hành hỏa, phá tan sức mạnh ảo giác của trận khí.
Hồ
Nhất Tinh nói xong liền thổi lên khúc tiêu kỳ lạ, tức thời có một con chồn to
lớn có cánh bay đến. Hồ Nhất Tinh nói:
Con cỡi con Hồ Tiên nầy bay vào trung tâm
hành hỏa phá trận.
Hồ
Nhất Tinh nói:
Nghịch Phong, chịu trách nhiệm, cỡi con Thần
Mã bay lên không đánh vào cờ trận, trung tâm hành thủy, phá tan sức mạnh ảo
giác của trận khí. Cờ trận đã có người phá, còn binh trận phải chọn Tướng tài
giỏi điều binh khiển tướng công phá.
Ân
Mao Vương, phân bổ lực lượng tấn công phá trận ngũ hành như sau:
Hồ Ma nghe lịnh, có thuộc hạ. Lão Tướng quân
thống lĩnh năm vạn quân, đánh vào cửa Tây kim trận, tuân lịnh.
Chiên La nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng nữ
thống lĩnh năm vạn quân, đánh vào cửa Bắc thủy trận.
Hổ Tinh nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân
thống lĩnh năm vạn quân, đánh vào cửa Nam hỏa trận, tuân lịnh.
Beo Tinh nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân
thống lĩnh năm vạn quân, bảo vệ liên hoàn doanh trại, nhất là bảo vệ lương
thực, đề phòng bất ngờ xảy ra, tuân lịnh, không bổ lực lượng đâu vào đấy.
Ân
Mao Vương nói:
Chờ quân Hung Nô đến là triển khai quân tấn
công.
Không
bao lâu thời có người vào báo:
Quân Hung Nô đã đến.
Thế
là quân Ân, triển khai lực lượng phá trận, bốn đạo quân như bốn con mãn xà, từ
trong đoanh trại bò ra lượn mình lao tới doanh trại quân Văn Lang, ai nhìn thấy
cũng phải kinh hồn bạc vía.
Đây
nói về Nguyên Minh cùng các Tướng trên đài quan sát nhìn thấy quân Ân như bốn
con mãn xà từ liên hoàn doanh trại lao ra, cuồn cuộn bò tới bao vây doanh trại
ngũ hành, quân binh đông như kiến. Nguyên Minh nhìn lên trời khấn rằng: Đây là
trận sanh tử sống còn của nước Văn Lang.
Trả nợ nước non lúc nầy đây
Dù có hy sinh cũng vui vầy
Hiếu trung một dạ lòng quyết tử
Xả thân vì nước sướng vui thay
Dòng máu anh hùng nòi Hồng Lạc
Trải gan phơi mật chí tung bay
Đền ơn xả tắc, dù ngã gục
Tử chiến quân thù, chí hăng say.
Nguyên
Minh nói cùng các Tướng Lĩnh:
Quân xâm lược tự nó dẫn xác đến, chúng nó sẽ
bỏ mạng tại nơi đây, đền tội với đồng bào dân tộc ta. Chúng kéo đến nhiều chừng
nào tốt chừng nấy, đây là cơ hội cho chúng ta quét sạch chúng. Các Tướng quân
nghe lệnh, tất cả hãy vào vị trí chiến đấu, một còn một mất với quân thù.
Nói
về cánh Tây trận ngũ hành. Cự Lân, tổng chỉ huy, ở trên quan sát đài, điều hành
cờ trận, cùng ba phó Tướng chỉ huy ở dưới đất là Xuân Thành, Kim Trọng, điều
khiển bốn đạo quân, Kim - Mộc - Thủy - Hỏa. Khơ Linh điều khiển đạo quân hành
thổ Trung Ương. Cánh Đông ngũ hành. Huyền Trung, tổng chỉ huy, ở trên đài quan
sát điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng chỉ huy ở dưới đất là Hoàng Châu,
Trịnh Chu, điều khiển bốn đạo quân, Kim - Mộc - Thủy - Hỏa. Ngô Dụng, điều
khiển đạo quân Trung Ương hành thổ. Cánh Nam ngũ hành. Trần Bá, tổng chỉ huy ở
trên đài quan sát điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng là Tôn Nghị, Dương Phàm,
điều khiển bốn đạo quân, Kim - Mộc - Thủy - Hỏa. Khơ Lan, điều khiển đạo quân
Trung Ương hành thổ. Cánh Bắc ngũ hành. Phan Lợi, tổng chỉ huy ở trên đài quan
sát, điều hành cờ trận, cùng ba phó Tướng ở dưới đất là Đổ Can, Ngô Đại, điều
khiển bốn đạo quân, Kim - Mộc - Thủy - Hỏa. Quốc Trung, điều khiển đạo quân
Trung Ương hành thổ.
Cùng
lúc ấy. Nguyên Minh phất cờ trận Trung Ương niệm chú, tức thời mây đen, mây
trắng, cuồn cuộn hiện ra che phủ ngũ hành trận, Nguyên Minh lại phất cờ trận
niệm chú tức thời Kim Thần, Mộc Thần, Thủy Thần, Hỏa Thần, Thổ Thần, xuất hiện
trấn giữ các cờ trận Trung Ương ngũ hành. Tức thời ngũ hành trận uy lực vô
biên, sát khí ngùn ngụt.
Nói
về Hồ Ma thống lĩnh năm vạn quân Ân, rầm rầm rộ rộ như con mãn xà lượn mình về
hướng Tây lao nhanh tới cánh Tây trận ngũ hành bao vây trùng trùng điệp điệp.
Hồ Ma chia ra làm ba đạo quân, bộ binh, xạ binh, kỵ binh, đồng loạt tấn công,
quân reo dậy đất ngựa hí vang trời. Tràng vào ngũ hành kim trận, bổng thấy trên
đài quan sát cờ trận phất theo thế quân binh ẩn sâu trong trận pháp, khí trận
tỏa ra sương mù. Quân Ân tiến vào như tiến vào chỗ không người, bộ binh do tướng
Mục Yêu, chỉ huy bộ binh quân Ân tiến vào như chỗ không người, thấy nơi đâu
cũng toàn là sương mù, thời vô cùng kinh hãi. Cùng lúc ấy đạo quân xạ binh quân
Ân cũng rơi vào tình cảnh như thế, tướng Phi La kinh hải. Đạo quân kỵ binh do
tướng Hồ Phỉ chỉ huy cũng không khá gì hơn, không thấy chi cả, chỉ toàn là
sương mù, trong lúc còn đang hoang mang. Thời mây đen, mây trắng, cuồn cuộn kéo
tới, che chắn hết tầm nhìn quân binh khó mà nhìn thấy được nhau. Quân Ân đang
hoang mang thời nghe chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất tên bắn ra như mưa,
lao giáo phóng ra như mưa trút, quân Ân rối loạn binh mã, rối loạn đội hình tấn
công lẫn nhau chết thôi là chết. Mây đen, mây trắng, sương mù phủ kín, quân Ân
không biết đâu là đâu đạp càn lên nhau vì không nhận rõ đâu là kẻ thù, đâu là
ta. Mục Yêu kinh hãi lao tới gào thét bình tỉnh không được giết lầm quân ta.
Mục Yêu nghe tiếng quát như sấm, từ trong đám mây lao ra một dũng Tướng múa
trường thương đâm Mục Yêu nhanh như tia chớp, Mục Yêu múa giáo chống trả, hai
hổ đánh nhau dậy trời, người vừa lao ra đánh Mục Yêu không ai khác hơn chính là
Xuân Thành.
Xuân
Thành võ nghệ cao cường, trường thương như mưa sa bão táp, Mục Yêu chống trả
muốn hụt hơi. Trong khi ấy quân Văn Lang như ma quỹ ẩn hiện khắp nơi tấn công
tới tấp, quân Ân càng lúc càng rối loạn, quân Văn Lang xông lên chém quân Ân
như chém chuối.
Sau
có thơ rằng:
Kinh thay chiến trận
ầm ầm
Tên bay dậy đất, giáo rền dậy non
Gươm, đao, chơm chớp loáng loang
Ầm ầm trận địa kinh thiên rợn người
Ào ào người ngựa ào ào
Đùng đùng dồn dập ôi nào khiếp kinh
Đầu người rụng xuống như sung
Thây người chồng chất núi non kể gì
Một bên con cháu Tiên Rồng
Một bên xâm lược bạo tàn ác ôn
Ôi thôi đao kiếm rền vang
Chờ xem trận chiến thắng thua phen nầy.
Cùng
lúc ấy Phi La đang ra sức dồn quân chống trả lại quân Văn Lang, từ mây trận bắn
xối xả ra, bất thình lình đội quân áo giáp Văn Lang từ phía sau đạo quân xạ
tiển quân Ân, đánh bọc tới, đạo quân xạ tiển quân Ân vô cùng rối loạn, tuôn vào
mây trận, bị quân Văn Lang xơi sạch, tình thế vô cùng nguy cấp, nếu quân Ân
không có giải pháp chống trả hửu hiệu.
Cùng
lúc ấy, đạo quân kỵ binh Ân, đang ra sức chống trả lại, đạo quân ma quỹ lúc ẩn
lúc hiện quân Văn Lang. Tướng Hồ Phỉ giặc Ân ra sức thúc kỵ binh chống trả, Hồ
Phỉ đang hò hét muốn hụt hơi. Bổng thấy một đạo quân thiết giáp kỵ binh từ mây
trận lao ra chém kỵ binh quân Ân như chém chuối. Hồ Phỉ kinh hãi lao vào xáp
chiến, thời nghe một tiếng quát trong trẻo Khơ Linh thúc ngựa xông vào song
kiếm chém tới như mưa. Hồ Phỉ múa giáo chống trả, Khơ Linh võ nghệ cao cường,
thế võ kỳ bí, song kiếm biến hóa, Hồ Phỉ chống đở muốn hụt hơi, quày ngựa bỏ
chạy.
Về
sau có thơ rằng:
Phương Nam nữ Tướng anh hùng
Đường gươm chơm chớp lẩy lừng biết bao
Đánh cho Tướng giặc lao đao
Kinh hồn bạc vía
tả tơi kinh hồn.
Cùng
lúc ấy cánh Đông trận ngũ hành, Hung Nô Vương
dồn quân xông vào trận như nước lở. Trên đài quan sát. Huyền Trung, thấy
quân Hung Nô tràng vô hành trận như nước lở, liền phất cờ hiệu, dụ địch. Tức
thời Hoàng Châu, điều khiển đạo quân kỵ binh ào ào xông ra chận đánh. Quân Hung
Nô mạnh như vũ bão, không thế lực nào ngăn trở nổi, quân Văn Lang đánh không
lại thi nhau bỏ chạy, quân Hung Nô rượt theo truy sát, một hồi lâu. Quân Văn
Lang lao vào sương mù rồi biến đi đâu mất.
Đạo
quân thứ hai do Trịnh Chu chỉ huy từ trong sương mù xuất hiện, tấn công quân
Hung Nô. Quân Hung Nô ỷ đông lại hừng hực khí thế áp đảo quân Văn Lang, xông
tới đánh quân Văn Lang như sấm sét, quân Văn Lang chống trả không nổi thi nhau
bỏ chạy. Quân Hung nô thừa thắng xông lên rượt đuổi truy sát quân Văn Lang,
bổng trên không nổ lốp bốp sương mù phủ tới không còn thấy chi cả. Hung Nô
Vương, trực tiếp chỉ huy ba đạo quân tiến vào một lúc, với sức mạnh dời non lấp
bể, quân Văn Lang không ngăn cản nổi. Hung Nô Vương là tay vô cùng hung bạo lại
ỷ có pháp thuật, cùng kỵ bịnh tiến vào phá trận, rượt đuổi truy sát quân Văn
Lang. Hung Nô Vương cùng ba đạo quân, kỵ binh, bộ binh, xạ binh, tiến nhanh sâu
vào trận thời không thấy quân Văn Lang đâu cả, chỉ toàn là sương mù. Hung Nô
Vương lấy làm kinh hãi định lui quân trở ra. Thời mây trận cuồn cuộn phủ tới,
che chắn hết tầm nhìn người trước mặt nhìn không rõ, Hung Nô Vương càng thêm
kinh hãi, niệm chú hóa phép đánh vào mây trận, thời mây trận càng mạnh thêm,
khí lực dồn tới một cách kỳ lạ. Hung Nô Vương ra lệnh: Rút lui, rút lui. Nhưng
đâu còn kịp nữa, quân Văn Lang từ bốn phương tám hướng ẩn theo mây trận đánh
tới, chiêng trống dậy trời, quân reo dậy đất, tên, lao, bắn, phóng ra như mưa
bão. Quân Hung Nô tài phóng lao, bắn tên, cỡi ngựa, thời không ai bằng, nhưng
không nhìn thấy địch thủ đâu cả, chỉ bắn phóng bừa vào mây trận, hiệu quả không
cao. Quân Văn Lang nhờ vào mây trận chiếm ưu thế, quân Hung Nô bị động không
làm chủ được trận địa. Càng đánh quân Hung Nô càng thiệt hại lớn, Hung Nô Vương
lúc nầy không còn phân biệt đâu là Đông Tây Nam Bắc, Hung Nô Vương hò hét tìm
đường trở ra nhưng không tìm thấy đường ra đâu nữa. Trước mặt là đạo quân thiết
giáp quân Văn Lang chiến đấu dữ dội. Hung Nô Vương chỉ còn con đường, tìm con
đường sống trong con đường chết mà thôi.
Nói
về Ngô Dụng thấy trên đài quan sát, phất cờ trận Trung Ương theo thế chận đứng
đường rút lui quân địch, tức thời điều khiển một vạn quân, trong đó có đạo quân
thiết giáp, chận đứng đường ra, không cho quân Hung Nô rút lui.
Về
sau có thơ rằng:
Hung Nô kinh hãi rụng rời
Lạc vào mây trận cuộc đời còn chi
Ngựa người dẩm đạp lên nhau
Đầu rơi máu đổ ôi thôi kinh hoàng
Chiêng rền trống dội vang trời
Gươm đao, giáo mác ầm ầm bủa vây
Hung Nô chờ chết tan thây
Còn xem tạo hóa mắn may thế nào.
TỬ CHIẾN
Cùng
lúc ấy nơi cánh Nam hành hỏa ngũ hành, Trần Bá ở trên đài quan sát, thấy quân
Ân trùng trùng lớp lớp, chia ra làm ba đạo quân, do Tướng Hổ Tinh tổng chỉ huy.
Hổ Tinh phất cờ bộ binh, chỉ kiếm, tức thời đạo quân bộ bịnh do Sa Lị cầm đầu
ào ào xông vào trận.
Nói
về Tôn Nghị Tướng Văn Lang nhìn thấy trên đài quan sát thấy cờ phất chận đứng
đánh quân địch tại cửa trận, tức thời điều động bộ binh xáp chiến, gươm đao
giáo mác đinh tai nhứt óc.
Về
sau có thơ rằng:
Chiến trận vang rền giáo, đao, gươm
Quân Ân cuồn cuộn tiến xông lên
Văn Lang binh lính đầy dũng khí
Thét gào lao tới quyết tử sinh
Con đường trung hiếu luôn phía trước
Tiêu diệt quân thù lũ ngoại xâm
Một mất một còn vì non nước
Hào khí Anh Linh chí Cha Ông.
Hổ
Tinh thấy sức chiến đấu quân Văn Lang như vũ bão, tức thời phất cờ đạo quân xạ tiển xông lên,
bắn vào đạo quân Văn Lang như mưa, quân Văn Lang chống cự không lại bỏ chạy,
quân Ân thắng thế ào ào rượt đuổi, bổng nghe chiêng trống nổi lên ầm ầm, đội
quân áo giáp Văn Lang xuất hiện, chận đánh đạo quân xạ binh quân Ân, sức mạnh
như dời sông lấp biển. Đạo quân xạ binh quân Ân tiến lên không nổi.
Hổ
Tinh thấy thế hét lên một tiếng, điều động kỵ binh xung trận, khí thế như cuồng
phong vũ bão, đội quân áo giáp đánh không lại. Dương Phàm ra lệnh rút lui. Ba
đạo quân Ân thừa thắng xông lên, rượt đuổi quân Văn Lang, bất thình lình sương
mù xuất hiện. Quân Ân không còn thấy quân Văn Lang đâu nữa, hoang mang kinh
hãi. Quân Văn Lang tức thời phản công như sấm sét.
Về
sau có thơ rằng:
Văn Lang nào phải nuốt dễ xơi
Gặp phải Tiên Rồng chết như chơi
Giặc Ân một lũ điên cuồng ngớ
Bỏ mạng sa trường xác thây phơi.
Nói
về Tướng chỉ huy xạ binh quân Ân là Hạ Phu kinh khiếp trước trận pháp ngũ hành,
thấy mây trắng, mây đen che phủ bảo bọc quân Văn Lang, vì thế quân Văn Lang
không khác gì đạo quân ma quỷ, không thấy đầu, không thấy đuôi, quân Văn Lang
thời thấy rõ quân Ân, quân Ân vô cùng bất lợi, càng đánh càng thất bại. Hạ Phu
thúc quân xông vào mây trận. Hạ Phu xông lên hò hét, không ngờ quân Văn Lang vô
cùng lợi hại, hạ gục quân Ân như hạ gục đàn chó dại. Hạ Phu phi ngựa bỏ chạy.
Bổng một tiếng quát nổi lên như sấm: Chạy đâu cho thoát. Tức thời tướng Văn
Lang xuất hiện, thanh đại đao trên tay chém tới nhanh như tia chớp. Hạ Phu múa
giáo chống trả, choang đinh tai nhứt óc, Hạ Phu kinh hoảng: Đao pháp gì mà mạnh
thế? Định phóng ngựa tẩu thoát, nhưng không còn kịp nữa một tia chớp nổi lên
thế Hạ Phu trúng một đao chết tốt, người giết chết hạ phu chính là Tôn Nghị.
Nói
về Sa Lị đang bị bao vây trong làn tên mũi giáo, ra sức chống trả. Dương Phàm
dương cung bắn một phát trúng ngay vào cổ, Sa Lị té nhào xuống ngựa chết tốt.
Quân Ân như rắn mất đầu hổn loạn vô cùng, Hổ Tinh kinh hãi thúc quân phá vòng
vây tìm lối ra, nhưng bị đạo quân thiết giáp đánh bật trở vào, người chỉ huy
đạo quân thiết giáp Văn Lang chính là Khơ Lan. Khơ Lan tả xông hửu đột, điều
khiển quân binh, đội quân thiết giáp vô cùng linh hoạt, quân Ân lớp lớp bị hạ
gục.
Nói
về cánh Bắc hành thủy, quân Ân cũng đang sa vào thảm cảnh sắp bị hủy diệt.
Chiên La đang bị bao vây trong làn tên mũi giáo, sắp mất mạng đến nơi, nói
chung quân Ân thua to nếu không phá được cờ trận.
Đây
nói về Hồ Nhất Tinh, Hồ Nhị Yêu, Hồ Tam Quỉ,
Ân Mao Vương, Nghịch Phong. Đồng loạt bay lên không xem xét trận ngũ
hành, thấy mây đen, mây trắng, cuồn cuộn che phủ trận ngũ hành không thấy gì
cả, khí lực ngũ hành tuôn lên cuồn cuộn, sát khí ngùn ngụt, đã hơn một giờ mà
chưa có cách phá trận. Ân Mao Vương lấy làm lo, vì quân Ân đã xông vào trận
địa, chiến trận nổ ra rền trời rền đất, không còn chần chờ được nữa, Ân Mao
Vương cỡi con Hồ Tiên bay xuống đánh phá cờ trận trung tâm hành hỏa.
Ân
Mao Vương vừa lao vào mây trắng, tức thời một đạo kim quang từ cờ đỏ trung tâm
hành hỏa tỏa lên tấn công. Hồ Tiên liền thổi hắc quang chống trả, Ân Mao Vương
rút bảo kiếm từ trên không chém xuống, bổng thấy một vị thần xuất hiện, bay lên
chống trả, chính là Hỏa Thần, hai bên đánh với nhau vô cùng ác liệt. Ân Mao
Vương, nhờ học được ba thầy nên pháp thuật vô biên. Hỏa Thần yếu thế hơn nhưng
nhờ thần lực cờ trận, nên Mao Ân Vương khó mà giành lấy phần thắng. Ân Mao
Vương quyết hạ gục Hỏa Thần kiếm báu trên tay vung lên chém xuống lia lịa, kiếm
khí tuôn ra chém tới ầm ầm. Hỏa Thần vung gậy phép lên chống trả, gậy qua kiếm lại
ầm ầm đùng đùng dậy trời dậy đất, đánh nhau
cả trăm hiệp bất phân thắng bại.
Cùng
lúc ấy Nghịch Phong cỡi con Huyết Hản thần mã bay vào mây trận, vung kiếm chém
xuống lá cờ đen trung tâm hành thủy, tức thời một đạo hào quang từ lá cờ đen
tỏa lên chống trả ầm ầm long trời lở đất. Nghịch Phong niệm chú hóa phép chỉ
tay một cái, tức thời một đạo khí phong bay tới lá cờ đen. Bổng một vị thần
xuất hiện đó là Thủy Thần, múa gậy chống đở.
Nghịch
Phong nổi giận quát:
Ngươi là ai mà dám đối địch với ta?
Thủy
Thần quát:
Nhái ranh hổn láo, xem gậy lão Thần đây.
Tức
thời chỉ gậy vào Nghịch Phong hô biến, tức thời cây gậy liền hóa ra một đạo kim
quang đánh tới. Nghịch Phong chỉ kiếm niệm chú hóa ra một đạo kim quang chống
trả, hai bên đấu phép với nhau liên miên bất tận. Nghịch Phong quyết hạ cho
bằng được đối thủ, phi ngựa lao tới chém vào Thủy Thần. Thủy Thần múa gậy chống
trả, đánh với nhau cả trăm hiệp bất phân thắng bại.
Lại
nói về Hồ Nhị Yêu bay thẳng vào trung tâm kim trận, đánh một chưởng xuống lá cờ
trắng, tức thời lá cờ trắng tỏa lên một đạo hào quang chống trả. Hồ Nhị Yêu
nhanh như chớp đánh liền ba chưởng xuống lá cờ trắng, bất thình lình một vị
Thần xuất hiện phất ba đạo kình phong chống trả, đùng ầm ầm long trời lở đất.
Hồ
Nhị Yêu quát:
Kim Thần muốn sống thời biến ngay đi.
Kim
Thần quát:
Không lo tu luyện còn giúp cho đồ đệ xâm
lược quả là ngươi đã tới số.
Hồ
Nhị Yêu tức quá múa phất Trầm đánh tới tấp vào Kim Thần, Kim Thần nào chịu kém,
múa gậy Thần đánh tới tấp vào Hồ Nhị Yêu, hai bên đanh nhau rền trời rền đất.
Gậy qua, Trầm lại hơn trăm hiệp bất phân thắng bại, ai nhìn thấy cũng phải kinh
hồn bạc vía.
Cùng
lúc ấy nói về Hồ Tam Quỉ, đánh với Mộc Thần. Cả trăm hiệp bất phân thắng bại,
Mộc Thần múa gậy kình phong tuôn ra ầm ầm, Hồ Tam Quỉ múa đôi bàn tay sắt vuốt
nhọn chống trả. Hồ Tam Quỉ nhanh như chớp chụp xuống lá cờ xanh bổng một đạo
hào quang tỏa lên, Tam quỉ trúng tia hào
quang đau buốt lấy làm kinh hãi. Không còn dám coi thường lá cờ trận, Tam Quỉ
bị Mộc Thần tấn công, rất khó phá được cờ trận, hai bên đánh nhau chưởng phong
ầm ầm, chỉ phong véo véo, bất phân thắng bại.
Lại
nói về Hồ Nhất Tinh, bay vào trung tâm ngũ hành trận, lao nhanh xuống lá cờ
vàng, đang phát ra uy lực vô biên, đánh xuống một đạo hắc quang, tức thời lá cờ
vàng tỏa lên một đạo hào quang chống trả, ầm ầm long trời lở đất. Hồ Nhất Tinh
múa phất trầm đánh xuống lá cờ trận, lá cờ trận tỏa hào quang chống trả, Hồ
Nhất Tinh không làm gì được. Hồ Nhất Tinh bằng ném một vật lên hư không niệm
chú, tức thời vật đó liền hóa ra một thanh xà kiếm, tỏa hào quang từ trên không
lao xuống hầu phá hủy lá cờ trận. Bổng Thổ Thần xuất hiện, ném gậy Thần chống
đở, choang một tiếng đinh tai nhứt óc. Hồ Nhất Tinh thâu phép lại, bay xuống
đánh với Thổ Thần, bất thình lình lao tới chụp lấy lá cờ. Thời nghe một tiếng
quát long trời lở đất, trường đao vung lên như tia chớp chém tới Hồ Nhất Tinh.
Hồ Nhất Tinh múa phất trầm chống trả ầm ầm, kinh thiên động địa.
Hồ
Nhất Tinh quát:
Nguyên Minh ngày tận số của ngươi tới rồi.
Thổ
Thần quát:
Loài yêu tinh hổn láo.
Thổ
Thần múa gậy đánh tới như vũ bão, Nguyên Minh vì không biết bay chỉ biết đứng
nhìn Thổ Thần cùng Nhất Tinh hổn chiến.
Trên không trận chiến ầm ầm
Dưới đất binh hùng xáp chiến kinh thiên
Ầm ầm đất chuyển trời rung
Đùng đùng gươm giáo khiếp kinh ầm ầm
Mặt trời sắp lặng non Tây
Quân reo ngựa hí bủa vây không ngừng
Kìa gươm giáo vang trời không dứt
Chiêng, trống rền hò hét liên miên
Đất trời như muốn ngã nghiêng
Cát bay đá chạy khiếp kinh mịt mù.
Hồ
Nhất Tinh, đang đánh với Thổ Thần, bổng rùng mình hóa phép, yêu tinh xuất hiện
đầy trời, lao vào đánh với Thổ Thần, xáp chiến với Nguyên Minh. Nguyên Minh múa
đao kinh phong tuôn ra ầm ầm chống trả với bầy yêu tinh. Bổng nghe ầm ầm long
trời lở đất, lá cờ trận đã bị Hồ Nhất Tinh chém rách, tức thời sương mù, mây
đen, mây trắng biến mất, ngũ thần cũng biến theo. Nguyên Minh vô cùng kinh hãi,
lúc nầy chỉ còn ngũ hành trận không còn cờ trận.
Nói
về Ân Mao Vương nhìn xuống ngũ hành trận thấy quân Ân chết lớp lớp chồng chất
lên nhau, thời thét lên lao xuống múa đao chém Trần Bá không cho Trần Bá điều
khiển quân kỳ nữa, Trần Bá múa đao chống trả, hai bên đánh nhau vô cùng dữ dội.
Còn Hồ Tiên liền thổi ra một luồn khí độc Trần Bá xây xẩm mặt mày, Ân Mao Vương
lao tới chém một đao bỏ mạng.
Về
sau có thơ rằng:
Ôi cái chết đi vào bất tử
Vì non sông Tổ Quốc hy sinh
Ôi cái chết tràn đầy uy dũng
Xác mất rồi nhưng hồn mãi Uy Linh.
Nói
về Nghịch Phong đang đánh với Thủy Thần thời nghe tiếng nổ ầm ầm, sương mù, mây
đen, mây trắng, biến mất, Thủy Thần cũng tan biến tự bao giờ. Nhìn xuống ngũ
hành trận, thấy quân Ân chết lớp lớp chồng chất lên nhau thời vô cùng kinh hãi,
tuy mây trận biến mất nhưng ngũ hành trận vẩn còn, nơi Trung Ương Hành Thủy
Phan Lợi, phất cờ điều khiển quân binh đánh quân Ân tới tấp. Nghịch Phong phi
ngựa tới chém Phan Lợi, Phan Lợi múa đao chống trả, hai bên đánh nhau ầm ầm,
đường đao Phan Lợi vô cùng lợi hại, Nghịch Phong khó mà làm gì được, bằng hóa
phép cuồng phong nổi lên lên ầm ầm, yêu tinh ma quỹ hiện ra xông tới đánh Phan
Lợi. Phan Lợi múa đao chống trả quyết liệt, hào khí ngùn ngụt yêu tinh không
làm gì nổi Phan Lợi. Nghịch Phong bằng lấy một thanh kiếm nhỏ trong túi ra ném
lên không niệm chú, tức thời một tia chớp lao xuống Phan Lợi không tránh kịp
đành bỏ mạng, Nghịch Phong phi ngựa xuống đất đánh quân Văn Lang cứu quân Ân.
Phan Lợi tuy chết nhưng hồn vẩn Hiển Linh hóa ra sương mù che chở quân Văn
Lang.
Về
sau có thơ rằng:
Thân ngã xuống nhưng hồn nào có chết
Vẩn anh linh trong
kiếp sống linh thiên
Hóa mây mù luôn che chở quân binh
Xác tuy mất nhưng linh hồn bất tử
Chết là hết, nhưng nào đâu có phải
Vẩn Anh Linh trong cuộc sống hiển linh
Kìa mây mù luôn che chở quân binh.
Lại
nói về Hồ Nhị Yêu, không hạ gục được Kim Thần, vô cùng tức giận những không làm
gì được, bổng nghe tiếng nổ ầm ầm, cờ trận cùng Kim Thần biến mất. Hồ Nhị Yêu
thấy Cự Lân phất cờ chỉ huy, liền lao xuống đánh một chưởng, bổng thấy một
người hiện ra đẩy Cự Lân bay sang một bên, ầm một tiếng muốn sụp cả quan sát
đài, Cự Lân nhìn rõ người cứu mình chính là Trần Bá. Lúc nầy trời đã xẩm tối,
Cự Lân phi thân xuống đất lẩn vào quân binh Văn Lang, Hồ Nhị Yêu không nhìn
thấy Cự Lân đâu nữa bằng hóa phép đánh xuống quân Văn Lang. Bổng thấy một con
Rồng hiện ra, Hồ Nhị Yêu kinh hoảng tàn hình trốn mất.
Cùng
lúc ấy Hồ Tam Quỹ định ra tay giết chết Huyền Trung, bổng thấy con Kỳ Lân xuất
hiện, Hồ Tam Quỉ kinh hoảng trốn mất.
Nói
về Nguyên Minh nhìn thấy cờ trận rách nát thời kinh hồn bạc vía, mây trận không
còn biết khó mà chống đở nổi quân Ân. Hồ Nhất Tinh, thâu phép bay tới thổi ra
một luồng yêu khí định giết chết Nguyên Minh, bổng thấy một con Rồng hiện ra
thổi một luồng hồng quang. Hồ Nhất Tinh kinh hoảng trốn mất.
Nguyên
Minh thoát chết chưa biết phải làm sao thời có người lên tiếng nói:
Chủ soái mau trốn đi.
Người
lên tiếng đó chính là Đa Kế. Lạc Hầu Công nói:
Mau dồn quân chạy về sông Tây Giang.
Tức
thời pháo lệnh đỏ bắn lên, khẩu lệnh truyền ra dồn quân về cánh Nam, trời lúc
nầy đã tối, ánh trăng soi đường, trận chiến còn vang dội, nhưng lúc nầy đã nghiêng
về phía quân Ân, nhờ có Ân Mao Vương, Nghịch Phong, Hung Nô Vương thần thông
quảng đại, quân Văn Lang bị đánh thê thảm.
Được
lệnh rút lui quân Văn Lang ào ào chạy về phía Nam, đánh bật Hổ Tinh, chạy về
hướng Lũng Trung Châu, bại binh chạy suốt cả đêm, tới sáng thời tới Vân Châu,
bại binh dừng nghĩ, người nào người nấy bò la bò lết đi hết nổi. Nguyên Minh
cho người kiểm lại quân binh thời chỉ còn hơn bốn vạn, đi tiêu mất sáu vạn
quân.
Nhìn
lên trời than thở:
Không ngờ quân Ân nhiều nhân vật tài năng
như vậy, ngũ hành cờ trận mà cũng phá được.
Quân
binh nghĩ không được bao lâu thời nghe tiếng ngựa hí từ xa vọng lại. Nguyên
Minh cùng các Tướng kinh hãi: Quân Ân đã đuổi theo đến nơi rồi sao?
Nguyên
Minh nhìn lên trời nói:
Thôi thì quyết tử tại nơi đây vậy.
Liền
cho bắn pháo lịnh tử chiến.
BẠI TRẬN
Đây
nói về Cao Hải, hiệp lực với quân Xích Linh đại phá đánh bại 30 vạn quân Hung
Nô. Lạc Hầu Công, mời Cao Hải cùng các quan Tướng vào thành thiết đải, ăn mừng
thắng trận. Cao Hải ở lại thành Xích Linh chưa được mấy ngày trong lúc đang bàn
Quốc Sự thời có quân vào báo. Đô Tướng Quân có thư.
Cao
Hải nhận thư đọc xong thời nước mắt ràng rụa. Ai nấy cũng đều kinh hải tự hỏi:
Chuyện gì thế? Trải qua một hồi lâu dằn cơn xúc động.
Cao
Hải nói:
Cao Sơn chết rồi.
Cao
Hải liền đưa thơ cho các Quan Tướng xem. Lạc Kim Tiên xem xong nói:
Quân Ân dồn hết lực lượng phá doanh trại ngũ
hành trận, đây là cơ hội cho chúng ta, cướp phá lương thực chúng, rồi từ phía
sau đánh bọc tới, tiêu diệt chúng, chỉ cần một trận nầy chiến thắng thời quân
Ân sẽ khiếp kinh hồn vía.
Lạc
Hồng Hầu nói:
Muốn tới Kinh Đô nhanh thời phải đi qua đồi
Mục Linh. Đồi Mục Linh hiện giờ quân Ân đang phục kích ở đó, chỉ còn có cách là
đi đường vòng, bọc qua đồi Mục Linh, rồi bất ngờ xông vào cướp doanh trại của
chúng.
Lạc
Hầu Vương nói:
Quân Xích Linh cùng tham gia trận chiến Đô
Tướng Quân cứ ra lịnh.
Cao
Hải nói:
Thành Xích Linh không thể bỏ trống, phải có
quân binh trấn thủ.
Trong
lúc còn đang bàn tán, thời có quân thám báo vào báo:
Quân Ân giao chiến với quân ta hơn nửa ngày
rồi.
Thời
gian quá gấp Cao Hải từ biệt Lạc Hầu Công cùng các quan tướng thành Xích Linh,
triển khai lực lượng, phân bổ như sau:
Phan Thanh Hải, nghe lịnh Có thuộc hạ, Ngô
Việt nghe lịnh. Có thuộc hạ. Hai Tướng Quân một trưởng, một phó, thống lĩnh một
vạn quân mở đường đi trước, còn đại quân đi sau, tuân lệnh.
Đi
đường vòng hơi xa mặt trời chưa lặng quân binh đã lên đường rồi. Nói về Phan
Thanh Hải, Ngô Việt, mỗi người thống lãnh một vạn quân đi trước, đạo quân Thanh
Hải tiên phong đi trước, đạo quân Bố Chánh Ngô Việt tiếp theo sau bọc đường
vòng qua khỏi đồi Mục Linh hơn 10 dặm ánh trăng vằn vặt, nếu đôi mắt sáng thời
nhìn thấy tận xa xa, khi đạo quân, Thanh Hải, Ngô Việt qua khỏi đồi Mục Linh
thời không còn lo sợ phục kích nữa.
Nói
về Hung Quân Liệt theo kế sách của Ân Mao Vương, chia làm hai đạo quân, phục
kích đi đường vòng của quân Văn Lang nằm im chờ đợi. Hung Quân Liệt thấy quân
Văn Lang xuất hiện thời khen Ân Mao Vương liệu tính như thần. Thấy Quân Văn
Lang đã nằm gọn trong ổ phục kích, nhưng
Hung Quân Liệt không tấn công, để cho đạo quân Thanh Hải đi qua lọt vào vòng
vây thứ hai, khi đạo quân Ngô Việt lọt vào ổ phục kích.
Hung
Quân Liệt nói:
Đây mới chính là đạo quân chủ lực.
Chờ
cho đạo quân Ngô Việt lọt vào vòng vây, thời Hung Quân Liệt thổi tù tấn công,
thế là tên bắn ra như mưa, quân Văn Lang bị đánh bất ngờ kinh hãi rối loạn,
không rõ quân địch để mà chống trả.
Nói
về Phan Thanh Hải thúc quân di chuyển nhanh về Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, thời
nghe phía sau đạo quân trận chiến đã nổ ra ầm trời ầm đất, không lẽ đã bị phục
kích, liền cho quân dừng lại không tiến nữa. Tiến tới không được lùi lại không
xong, chưa biết phải làm gì thời nghe quân reo dậy đất quân Hung Nô ào ào lao
ra tấn công, tên bắn như mưa, quân Văn Lang bị tấn công bất ngờ hốt hoảng rối
loạn, quân Hung Nô chủ động trận địa đánh tới tấp, quân Văn Lang chết như rạ.
Phan Thanh Hải thét lớn bình tỉnh chiến đấu, tức thời quân Văn Lang lấy lại
bình tỉnh chiến đấu quyết liệt, xông lên xáp lá cà với quân Hung Nô.
Về
sau có thơ rằng:
Một bên là lính Văn Lang
Một bên là giặc bạo tàn ngoại xâm
Quân giặc cuồn cuộn xông lên
Chủ trì trận địa giáo gươm ầm ầm
Văn Lang bị động hoàn toàn
Thây nằm la liệt khắp cùng xiết bao
Tinh thần quyết tử dâng cao
Chỉ còn hơi thở cũng nào xông lên
Hung Nô cũng phải khiếp kinh
Văn Lang quyết tử dâng lên cuộn cuồn
Hung Nô thiệt hại cũng nhiều
Mới hay con cháu Tiên Rồng Uy Linh
Dù cho đất lở trời nghiêng
Tinh thần quyết tử hùng anh lạ đời
Kinh thay dòng máu Lạc Hồng
Tử sanh, sanh tử, lông hồng nhẹ tênh
Hy sinh vì nước vì dân
Linh hồn nhẹ bổng chín tần Trời Cha
Vì non vì nước vì nhà
Tử sanh, sanh tử, sá gì như không.
Quân
Hung Nô thấy Phan Thanh Hải, múa đao chém quân Hung Nô như chém chuối, tức thời
quân Hung Nô tập trung bắn tới Phan Thanh Hải. Phan Thanh Hải trúng tên khắp cả
mình đành phải bỏ mạng. Quân Văn Lang tuy rắn mấy đầu nhưng không bao giờ bỏ
chạy, người nầy ngã xuống người khác xông lên, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng,
quân Hung Nô khiếp vía kinh hoàng, trước khí phách hào hùng quân Văn Lang.
Nói
về Ngô Việt biết mình đã lọt vào ổ phục kích của quân giặc, từ nơi ẩn núp quân
Hung Nô bắn tên ra như mưa, quân Văn Lang vô cùng hổn loạn. Ngô Việt thét lớn
bình tỉnh chiến đấu, tử chiến tử chiến, tức thời quân Văn Lang hò reo dậy trời
dậy đất, lao vào quân Hung Nô như vũ bão, tiếng gào thét tiến lên tiến lên, thế
là trận đánh xáp lá cà, gươm đao giáo mác dậy trời dậy đất.
Về
sau có thơ rằng:
Ầm ầm trận đánh kinh thiên
Đao gầm, kiếm thét, liên miên ầm ầm
Tên lao rợp đất rợp trời
Thân người ngã gục xác người như non
Chiến trường nổi gió nổi dông
Quân binh ào tới giáo gầm kiếm tuôn
Rền trời hai tiếng xung phong
Giáo gươm xối xả ôi thôi bịt bùng
Đùng đùng vang dội đùng đùng
Văn Lang quyết tử, mất còn tại đây.
Nói
về Hung Quân Liệt thấy quân Văn Lang chiến đấu anh dũng như thế cũng phải khiếp
hoảng. Quân Văn Lang gan đồng dạ sắt chăng, coi cái chết như không, không lẽ
đây là tinh thần Quốc Đạo Văn Lang, được kể qua truyền thuyết, Hung Quân Liệt
càng khiếp hãi.
Nói
về Bố Chính Ngô Việt, thương tích đầy mình, cố thúc ngựa phá vòng vây lao ra
khỏi trận địa chạy về phía đại quân Văn Lang đang đi phía sau.
Đây
nói về Cao Hải nghe chiến trận nổ ra phía trước liền biết là hai đạo quân tiên
phong đã sa vào ổ phục kích của quân giặc, liền cho đại quân dừng lại, với tinh
thần chuẩn bị chiến đấu cao, khi có quân địch tấn công.
Cao
Hải phi ngựa lên phía trước xem xét tình hình, thời thấy Ngô Việt mình đầy máu
me cỡi ngựa lao tới nói:
Tướng quân mau cho quân rút lui, quân giặc
phục kích khắp nơi.
Nói
xong Ngô Việt tắc thở. Cao Hải đau xót vô cùng, biết là quân Ân đã lường trước
tất cả, đón được ý đồ của chúng ta, phục kích chận đánh khắp nơi, nên không dám
rút quân về thành Xích Linh, sợ quân giặc phục kích đánh bọc hậu. Nên nhanh
chóng rút quân về Huyện An Giao, quân đi đến gần sáng, tưởng là đã thoát ra
khỏi sự phục kích của quân giặc, đại quân vừa mới chạm chân đến Huyện An Giao,
thời nghe tiếng tù nổi lên, hai bên đường tên bắn ra như mưa. Quân Văn Lang bất
ngờ hốt hoảng. Cao Hải thúc quân tiến tới, chống trả nhanh chóng thoát ra khỏi
ổ phục kích của giặc. Quân giặc, ào ào rượt đuổi theo, quân Văn Lang không chạy
về Huyện An Giao, mà chạy về Vân Châu.
Nguyên
Hạo Hạo chạy trước mở đường khi đến Vân Châu thấy có quân phía trước, thời vô
cùng kinh hãi, quày ngựa trở lại báo với Cao Hải:
Bẩm Đô Tướng Quân, phía trước có quân mai
phục.
Cao
Hải giật mình kinh sợ, thở dài nói:
Quân giặc tài đến thế sao? Ý Trời đã thế,
chúng ta đành bỏ mạng tại Vân Châu vậy.
Cao
Hải cho quân dừng nghĩ dưỡng sức, rồi quyết một trận sanh tử với giặc. Đến khi
nhìn thấy pháo lệnh tử chiến, biết đây là pháo lệnh của quân Văn Lang, Cao Hải
mừng rở vô cùng, cho bắn pháo lệnh đáp trả, để nhận ra nhau.
Nguyên
Minh thấy pháo lệnh nói:
Đó là quân ta, quân của Đô Tướng Quân Cao
Hải.
Nguyên
Minh biết Cao Hải cũng đã thất bại, nên mới chạy đến đây. Không bao lâu Cao Hải
dẩn tàn quân chạy đến, Nguyên Minh, Cao Hải ôm nhau mà rơi nước mắt, hơn hai
mươi vạn quân giờ chỉ còn không đầy mười vạn, một tổn thất nặng nề, Nguyên Minh
cũng cố lại lực lượng, xin viện binh từ Kinh Đô Văn Lang, chờ cơ hội đánh trả,
chận đứng không cho quân Ân tiến vào Trung Văn Lang, Nguyên Minh chưa có tin
tức gì về Nguyên Dực.
PHÁ TRẬN
Đây
nói về Nguyên Dực, cùng quân binh nhờ trận ngũ hành giặc Ân chưa làm gì được,
lại còn đánh cho quân giặc tả tơi chết vô số kể, định tiến quân ào ra tiêu diệt
quân Ân, nhưng thấy quân Ân còn đông như kiến, không thể nào đánh bại được.
Lại
nói về Sát Sát, ỷ mình quân đông lại có pháp thuật, có thể phá trận ngũ hành dễ
dàng, không ngờ không phá được lại đi tiêu hơn bốn vạn quân giờ mới biết sợ
hải, lập đàng cầu sư phụ. Không bao lâu thời một Đạo Cô xuất hiện, tên là Hồ
Bạch Hoa.
Sát
Sát lễ lạy rồi nói rằng:
Con đang gặp phải khó khăn, lời đồn quả
không sai phương Nam có trận ngũ hành vô cùng lợi hại, không dễ gì phá được.
Hồ
Bạch Hoa nói:
Ta biết vậy nên đến đây giúp con, phương Bắc
nhà Chu cũng có ngũ hành trận, nhưng không lợi hại như ngũ hành trận phương
Nam. Vì ngũ hành trận phương Nam, kèm theo ngũ kỳ trận uy lực vô biên, muốn phá
được ngũ hành trận, phải phá ngũ kỳ trận trước, nếu không có công tu luyện hàng
nghìn nghìn năm thời không bao giờ phá được.
Bằng
thắp hương lâm râm niệm chú, không bao lâu thời có hai Đạo Cô, một Đạo Tiên
xuất hiện. Hồ Bạch Hoa giới thiệu hai Đạo Cô. Hồ Bạch Hoa chỉ Đạo Cô mặc áo
xanh nói:
Đây là Thanh Xà Đạo Cô, còn đây là Tý Bạch Đạo
Cô, còn đây là Bạch Hầu Đại Tiên.
Sát
Sát theo lời giới thiệu mà lạy tạ. Sát Sát mời các sư phụ vào ghế ngồi. Hồ Bạch
Hoa nói:
Phá ngũ kỳ trận đều nhờ hết vào Đại Tiên.
Bạch
Hầu Đại Tiên nói:
Bạch Muội, chịu trách nhiệm đánh vào Tây kỳ,
phá cho được cờ trắng. Thanh Xà Đạo Cô, đánh vào đông kỳ, phá cho được cờ xanh.
Tý Bạch Đạo Cô, đánh vào Nam kỳ, phá cho cho được cờ đỏ. Sát Sát, đánh vào Bắc
kỳ, phá cho được cờ đen, chỉ cần phá được một trong năm kỳ, thời bốn kỳ kia tự
biến mất.
Sát
Sát là người nóng lòng phá trận, bằng cỡi thiên lý mã bay lên không lao xuống
trung tâm Bắc kỳ trận, rút kiếm chém xuống lá cờ đen, không ngờ lá cờ đen tỏa
hào quang chống trả ầm ầm, kinh thiên động địa. Sát Sát bị mây đen, mây trắng
cuồn cuộn bao vây che chắn tầm nhìn khó mà đánh trúng lá cờ đen. Sát Sát tức
quá cỡi ngựa thần lao xuống, vung kiếm báu chém xuống ầm ầm, bổng Thủy Thần
xuất hiện múa gậy thần chống trả, hai bên đánh nhau rền trời rền đất. Sát Sát
hóa phép liên miên, nhưng bị thần lực ngũ kỳ hóa giải cả. Sát Sát thất kinh.
Sát Sát võ nghệ cao cường áp đảo Thủy Thần, bất thình lình Sát Sát lao xuống
chém Hắc Kỳ một nhác như tia chớp, thời có tiếng quát xem nầy, một lằn ánh sáng
chớp lên chống đở, choang một tiếng đinh tai nhứt óc. Người ra đòn chống đở
đường kiếm của Sát Sát là ai thế, còn ai vào đó nữa chính là Lê Anh.
Nói
về Lê Anh ở trên đài quan sát, thấy Sát Sát cỡi ngựa từ trên không lao xuống
chém vào Hắc Kỳ thời vô cùng kinh hãi, múa đao chống đở, choang một tiếng đinh
tai nhứt óc. Thủy Thần cũng múa gậy đánh tới. Sát Sát múa kiếm chống trả, Sát
Sát đảo ngựa bất ngờ đánh xuống một chưởng, tức thời Hắc Kỳ tỏa hào quang chống
trả ầm một tiếng long trời lỡ đất. Sát Sát quyết tâm phá cho được Hắc Kỳ, đã
trôi qua mấy giờ nhưng vẩn chưa làm gì được.
Cùng
lúc ấy Hồ Bạch Hoa múa phất trầm tới tấp đánh xuống Bạch Kỳ, Kim Thần xuất hiện
múa gậy chống trả, nhờ có thần lực Bạch Kỳ hổ trợ Kim Thần, nên Bạch Hoa chưa
thể hạ gục được Kim Thần, hai bên đánh nhau rền trời rền đất. Hồ Bạch Hoa hóa
phép liên miên nhưng chưa phá nổi uy lực Ngũ Kỳ. Hồ Bạch Hoa phất tay một đạo
chỉ quang đánh xuống Bạch Kỳ, Bạch Kỳ tỏa hào quang chống trả ầm đinh tai nhứt
óc. Kim Thần múa gậy xông tới, đánh Bạch Hoa, Bạch Hoa múa phất trầm chống trả,
hai bên đánh nhau dậy trời dậy đất, bất phân thắng bại. Hồ Bạch Hoa bất ngờ ném
lên một vật, hóa thành con chồn có cánh bay nhanh chụp xuống cờ trận, tức thời
một tia chớp nổi lên chém tới con chồn có cánh. Ầm một tiếng, con chồn nát tan,
ai mà có đường đao nhanh đến thế, còn ai nữa chính là In Đô.
In
Đô theo dõi trận chiến giữa Kim Thần và Bạch Hoa, nhất là chú ý Bạch Hoa, thấy
Bạch Hoa ném ra một vật, hóa thành con chồn lao xuống cướp lấy cờ trận, tức
thời In Đô múa đao chém tới, con chồn trúng một đao tan xác. Bạch Hoa thấy mất
bảo bối vô cùng tức giận thét lên inh ỏi. Phất trầm trên tay phất lên lia lịa,
những trận cuồn phong tuôn ra tưởng chừng như đất trời muốn sập đến nơi. Kim
Thần múa gậy kình lực tuôn ra chống trả quyết liệt, ầm ầm đùng đùng liên miên
bất tận.
Cùng
lúc ấy Tý Bạch Đạo Cô, ra sức đánh với Hỏa Thần. Hỏa Thần cũng không chịu kém,
hai bên đánh nhau, mù trời mịt đất. Tý Bạch múa phất trầm đánh Hỏa Thần tới
tấp, bất ngờ biến mất, là cờ đỏ bổng tỏa hào quang ầm ầm đùng đùng. Tý Bạch Đạo
Cô chưa có cách nào phá được cờ trận, lại bị Hỏa Thần tấn công tới tấp. Tý Bạch
Đạo Cô liền hiện nguyên hình một con chuộc bạch to lớn, thổi ra một luồn bạch quang,
xuống cờ trận tức thời hàng loạt tiếng nổ nổi lên rung chuyển đất trời, đài
quan sát như muốn sập, nhưng cờ trận vẫn còn không hề hấn gì. Hỏa Thần ném gậy
lên không niệm chú, cây gậy Thần tỏa hào quang đánh xuống, con chuộc bạch tức
thời biến mất, lao xuống quan sát đài chụp lấy lá cờ trận. Dương Điền luôn theo
dõi trận chiến giữa Hỏa Thần với Tý Bạch Đạo Cô, thấy Tý Bạch Đạo Cô hiện
nguyên hình là con chuộc bạch to lớn, thổi ra luồng bạch quang, xuống lá cờ
trận, Dương Điền sít chút nữa thời bỏ mạng, thấy con chuộc bạch biến mất liền
sinh nghi liền chém tới một đao, đến chỗ lá cờ chỉ nghe nổ ầm một tiếng, hình
như trúng phải một cái gì, con chuộc bạch đở được đường đao của Dương Điền,
liền hiện lại nguyên hình là Tý Bạch Đạo Cô. Tý Bạch Đạo Cô định phóng ra một
lưỡi kim đao nhỏ xíu giết chết Dương Điền. Hỏa Thần liền lao tới gậy Thần trên
tay vùn vụt đánh tới tấp vào Tý Bạch Đạo Cô, Tý Bạch Đạo Cô càng đánh càng kinh
hãi không ngờ ngũ hành cờ trận lại lợi hại như vậy.
Đây
nói về, Thanh Xà Đạo Cô là một con trăn tu luyện mấy nghìn năm, thần thông pháp
thuật cao cường, đánh mới Mộc Thần, Mộc Thần nhờ ứng hiệp theo cờ trận nên
Thanh Xà Đạo Cô chưa làm gì được. Thanh Xà Đạo Cô liền hóa ra một trận cuồng
phong hầu quét sạch mây trận, đánh tan che chắn tầm nhìn, không ngờ mây trận
lại cuồn cuộn tuôn ra dữ dội hơn nữa. Thanh Xà chỉ tay một cái, tức thời xuất
hiện một tia sáng đánh xuống lá cờ xanh, lá cờ xanh liền tỏa hào quang chống
trả, ầm ầm đùng đùng. Mộc Thần múa gậy dông tố nổi lên ầm ầm đánh tới Thanh Xà
Đạo Cô, hai bên đánh nhau càng về sau càng dữ dội. Thanh Xà vừa đánh với Mộc
Thần bất thình lình thổi ra một con trăn có cánh, bay xuống cắn nát là cờ Thần,
nào hay bị chém trúng một đạo biến mất. Thanh Xà Đạo Cô đau đớn như trúng phải
một đao, tức giận gầm lên hiện nguyên hình là một con trăn to lớn dài mấy chục
thước, mồm con trăn phun ra lửa dữ, hầu đốt cháy sạch quan sát đài.
Nói
về Lô Gô, chém trúng con trăn nhỏ do Thanh Xà Đạo Cô thổi ra, Thanh Xà Đạo Cô
tức giận hiện nguyên hình là một con trăn to lớn dài mấy chục thước, miệng khè
ra lửa, đuôi quật lên dông bão ầm ầm làm khiếp kinh quân binh. Hỏa Thần ném gậy
lên không niệm chú, gậy Thần tỏa ra hào quang sấm nổ nổi lên sấm sét đánh
xuống. Con trăn to lớn biến mất, những tiếng nổ ầm ầm liên miên bất tận.
Lô Gô bị kình lực giao tranh giữa cờ
trận Hỏa Thần, Thanh Xà Đạo Cô hất rớt xuống quan sát đài. Lô Gô kinh hãi, cuộc
chiến Hỏa Thần, Thanh Xà Đạo Cô càng trở nên quyết liệt. Lô Gô bị trúng kình
lực ê ẩm cả mình, nếu không có áo giáp thời coi như toi mạng rồi.
Nói
về Bạch Hầu Đại Tiên, chiến đấu với Thổ Thần long trời lở đất chưa có cách gì
phá được cờ trận, bổng thấy Thần lực cờ trận yếu xuống, thời biết đây là cơ hội
may ra phá được, liền hóa phép tức thời yêu tinh quỉ dữ đầy trời xông vào đánh
với Thổ Thần, lao xuống trung tâm quan
sát đài đánh với Nguyên Dực.
Nói
về chủ soái Nguyên Dực ở trên đài quan sát theo dõi trận chiến giữa Thổ Thần
với Bạch Hầu Đại Tiên, bổng thấy yêu tinh quỉ dữ xuất hiện đầy trời, lao xuống
đài quan sát tấn công mình, Nguyên Dực vốn võ nghệ cao cường lại có pháp thuật
thần thông nên chống trả lại yêu tinh quỉ dữ,
cuộc chiến xảy ra kinh thiên động địa. Bổng nghe một tiếng nổ long trời
lở đất, cờ trận đã bị phá lá cờ vàng đã bị rách nát, sương mù, mây đen, mây
trắng, ngũ thần biến tan hết thảy. Nguyên Dực kinh hoàng khiếp vía, ngũ hành cờ
trận mất đi thời sức mạnh huyền bí của quân Văn Lang không còn nữa, chỉ còn nhờ
vào cái tài điều binh khiển Tướng mà thôi.
Đây
nói về Sát Sát thấy cờ trận tan biến không còn vô cùng mừng rở nhìn thấy rõ
quân Văn Lang, chỉ cần tiêu diệt năm vị Tướng trên quan sát đài thời coi như
ngũ hành trận bị phá vỡ. Sát Sát liền cỡi ngựa lao xuống đài quan sát chém Lê
Anh múa đao chống trả, đường gươm Sát Sát nhanh khôn tả, lại ẩn tàn một kình
lực vô biên. Lê Anh múa đao như mưa sa bão táp chém tới ầm ầm, con thiên lý mã
bay lên không Sát Sát niệm chú tức thời một trận cuồng phong nổi lên cuộn xuống
Lê Anh. Lê Anh không còn đứng vững được nữa, Sát Sát lao xuống chém một gươm bỏ
mạng. Thế là cánh Bắc ngũ hành trận bị phá vỡ, Sát Sát bay tới chỗ quân Ân ra
lệnh tấn công. Thế là Tào Bá, con của Tào Côn ra lệnh ba đạo quân binh ào ào
xông vào Bắc trận, quân Văn Lang chỉ còn ra sức chống trả. Sát Sát hóa phép
cuồng phong cuốn tới quân Văn Lang tối tăm mù mịt nghiêng ngã quân binh, quân
Ân lao tới chém như mưa, quân Văn Lang thi nhau ngã gục.
Nói
về Thanh Xà Đạo Cô thấy ngũ hành cờ trận đã bị phá, nhưng còn ngũ hành trận
pháp cũng vô cùng lợi hại, nên bay xuống giết chết Lô Gô phá vỡ trận pháp.
Thanh Xà Đạo Cô thổi ra một luồng hắc khí Lô Gô xây xẩm mặt mày. Thanh Xà Đạo
Cô lao tới đánh một chưởng kết liểu mạng sống Lô Gô. Bổng một con Phụng Hoàng
xuất hiện, hào quang rực rỡ, Thanh Xà Đạo Cô khiếp vía tàn hình trốn mất. Lô Gô
thoát chết, nhưng không còn đứng dậy nổi, quân binh thấy thế đưa Lô Gô xuống
đài chửa trị.
Nói
về Võ Vu thấy ngũ hành cờ trận đã bị phá liền xua quân ào ào lao vào trận địa
tấn công quân Văn Lang, quân Văn Lang chống trả quyết liệt, hai bên đánh với
nhau rền trời rền đất.
Thế là trận đánh kinh thiên
Đao gầm kiếm thét liên miên ầm ầm
Ngựa người lao tới rầm rầm
Cuộn cuồn lớp lớp đạp càn lên nhau
Kiếm đao xối xả như mưa
Thây người ngã gục nào thua lở đồi
Hai bên đánh xáp lá cà
Chiến trường gào thét ôi là kinh thiên
Đất trời như muốn ngã nghiêng
Cuồng đao, bão kiếm, mưa tên bịt bùng
Núi non rung chuyển đùng đùng
Rồng Tiên, cọp, sói, tranh hùng dậy non.
Đây
nói về Hồ Bạch Hoa, thấy ngũ hành cờ trận đã bị phá, nhưng ngũ hành binh pháp
vẩn vô cùng lợi hại, không dễ gì quân Ân chiếm lấy ưu thế, liền bay xuống hạ
gục In Đô. In Đô múa đao chống trả, Hồ Bạch Hoa thấy In Đô võ nghệ cao cường,
khó mà hạ gục nhanh chóng được, bằng thổi ra một luồng hơi độc, In Đô xây xẩm
mặt mày. Hồ Bạch Hoa bay tới kết thúc sanh mạng của In Đô. Sanh mạng In Đô chết
sống trong đường tơ kẽ tóc, bổng một con Rồng xuất hiện, múa vuốt chụp Bạch
Hoa. Hồ Bạch Hoa khiếp vía tàn hình trốn mất. In Đô vì trúng độc mắt mở không
ra nằm yên bất tỉnh, quân binh khiêng xuống lo chạy chữa.
Cùng
lúc ấy Tý Bạch Đạo Cô, đang chiến đấu với Dương Điền. Dương Điền võ nghệ cao
cường, Tý Bạch Đạo Cô chưa thể hạ gục được ngay, bằng thổi ra một luồng yêu
thuật, bổng thấy một con chim điêu xuất hiện, hào quang sang chóa. Tý Bạch Đạo
Cô kinh hãi hóa ra một trận cuồng phong trốn mất. Dương Điền, thấy quân Hồ tràn
vô như nước lở phất cờ chỉ huy đánh trả. Quân Hồ bị hỏa trận quân binh Văn Lang
vô cùng lợi hại. Đánh quân Hồ tơi tả. Hồ Mị Hoa phi ngựa tới hét lớn, niệm chú
chỉ kiếm, tức thời cuồng phong nổi dậy ầm ầm, ập tới quân Văn Lang, quân Văn
Lang ngã rạp, quân Hồ ập tới chém rối xả, quân Văn Lang chết thôi là chết.
Về
sau có thơ rằng:
Dù cho nát thịt tan xương
Cũng không lùi bước tiến lên diệt thù
Kìa lũ giặc ào ào tràn tới
Hỡi xông lên tử chiến hùng anh
Liệt oanh anh dũng liệt oanh
Đánh cho quân giặc tan tành khói mây
Thân ngã xuống hồn bay trận chiến
Đánh quân thù tan biến tiêu ma
Văn Lang non nước sơn hà
Dễ gì cướp được yêu tà ngoại xâm.
Nói
về Bạch Hầu Đại Tiên, phá tan ngũ hành cờ trận, nhưng ngũ hành binh pháp cũng
vô cùng lợi hại, bằng bay xuống tiêu diệt Nguyên Dực. Nguyên Dực võ nghệ cao
cường lại có pháp thuật, không dễ gì vài ba mươi hiệp, hạ gục được. Bạch Hầu
Đại Tiên liền hóa phép, yêu tinh quỉ dữ bao vây bốn phía tấn công Nguyên Dực.
Nguyên Dực múa gươm chống trả, đường gươm như mưa sa bão táp, yêu tinh tuy đông
nhưng không làm gì được. Bạch Hầu Đại Tiên nổi giận, liền nhả ra một viên ngọc
ném lên không hô biến, tức thời những tia hào quang chiếu xuống Nguyên Dực
trúng phải những tia hào quang liền xây xẩm mặt mày, ngã gục xuống sàn, yêu
tinh quỉ dữ lao tới xé xác. Bổng Hoàng Long xuất hiện, nuốt mất viên ngọc tu
luyện hơn mấy nghìn năm mới thành của Bạch Hầu Đại Tiên. Bạch Hầu Đại Tiên kinh
hồn bạc vía, tàn hình trốn mất. Nguyên Dực thoát chết, nhìn thấy cánh Bắc, cánh
Nam, đã bị quân Ân, quân Hồ phá vỡ.
Chưa
biết phải làm sao thời có tiếng nói lớn:
Chủ soái mau ra lệnh cho quân binh phá vòng
vây cánh Đông, chạy về Ninh Châu, cố thủ.
Người
lên tiếng đó chính là Hầu Thái Công. Nguyên Dực tức thời truyền lệnh cho quân
binh phá vòng vây cánh Đông. Võ Vu chống trả không nổi đành bỏ chạy, quân Văn
Lang ào ào tuôn ra chạy về Ninh Châu, quân Ân rượt theo một đoạn, không rượt
theo nữa, vì lúc nầy trời đã tối. Nguyên Dực dẩn tàn binh về gần tới Ninh Châu,
thời thấy Lạc Đại Vương, Bạch Tướng Quân dẩn quân ứng cứu.
Hầu
Thái Công hỏi:
Sao biết quân ta thua mà ứng cứu.
Lạc
Đại Vương cùng Bạch Tướng Quân nói:
Chúng tôi luôn luôn cho quân thám báo theo
dõi tình hình cập nhật liên tục trận chiến, nghe nói mây trận đã bị phá vỡ,
thời biết quân ta không thể nào chống cự lại được, liền dẩn quân đến ứng cứu.
Khi
quân binh về hết thành Ninh Châu, cửa thành liền đóng lại phòng thủ nghiêm
ngặt. Lúc nầy Nguyên Dực cho người điểm lại binh lính, thời đi tiêu năm vạn chỉ
còn năm vạn, thời chỉ biết thở dài. Bằng hỏi qua tình hình, đồi Vạn Lâm, cũng
như đạo quân của Việt Luân Tướng Quân. Bạch Tướng Quân, rơi nước mắt kể lại tất
cả những gì quân thám báo đã báo. Rồi nói rằng:
Chiến dịch ra quân chúng ta đã bị bại lộ, là
do hai con quỉ nghe lén thông tin, sau nầy mới phát hiện được. Là vì chúng tiếp
tục nghe lén, khi phát hiện ra chúng thì chúng biến mất. Quân Ân vì thế mà đi
trước ta một nước cờ, là do bại lộ thông tin, khi chúng ta bàn kế sách. Chúng
đưa quân phục kích đồi Vạn Lâm trước ta, và tiêu diệt quân ta. Hầu Tướng Quân,
cũng như Chăm Ly bỏ mạng, năm vạn quân chỉ còn hơn một vạn. Không những thế
quân Ân phục kích ở địa phận Ninh Điền
khi quân ta đi qua đường quanh co hiểm trở, chúng liền tấn công Việt
Luân Tướng Quân bỏ mạng năm vạn quân chết sạch không còn một người.
Nguyên
Dực nghe xong thời than thở không thôi. Hầu Thái Công nói:
Việc binh thắng bại là lẽ bình thường, quân
Ân lắm nhiều yêu tinh quỉ dữ, trợ giúp khó mà đánh lại chúng. Chủ soái nói rõ
tình hình quân giặc xin viện binh cũng cố lại lực lượng, quyết một còn một mất
với chúng.
Nguyên
Dực nghe theo viết thơ dâng lên Vua Hùng cầu thêm viện binh.
Vận nước suy vong nạn dập dồn
Quân binh tướng sĩ lấp vùi chôn
Hết thịnh tới suy thường là thế
Huyền cơ tạo hóa luật nhân sinh
Kiếp nạn Văn Lang Nguồn Cội mất
Gieo mầm chinh chiến khổ đao binh
Nước non lắm cảnh nhiều tai kiếp
Chờ mong Quốc Tổ cứu sanh Linh.
KỲ TÍCH XUẤT HIỆN
Ở
các thời kỳ Hùng Vương. Anh Linh Quốc Tổ Long Đế Sùng Lãm, người khai sinh ra
nước Xích Quỷ thời đại Kinh Dương Vương. Long Đế Sùng Lãm chính là Thiên Long
Vương đầu thai, khi mãn kiếp trần gian trở về Trời. Thường hiển Linh hiện về
trên khắp đất nước Văn Lang, nhất là thời hậu Hùng Vương. Giúp cho dân Văn Lang
luôn trúng mùa, no cơm ấm áo. Anh Linh Quốc Tổ Thiên Long Vương, Sùng Lãm,
thường hiện về, với hình dáng người mây, người mây to lớn, dấu chân Anh Linh
Thiên Long Vương Quốc Tổ to lớn, đi đến đâu là in dấu chân xuống đó. Không
những ở trên đất mà ngay cả trên đá, dấu chân Quốc Tổ Thiên Long Vương Sùng
Lãm, không chỉ có trên đất nước Văn Lang, Trung - Nam - Bắc Văn Lang, mà cùng
khắp địa cầu, cả Đông lẩn Tây, tạo ra những cơn mưa trái mùa làm cho hoa màu,
ngô, lúa, tốt tơi đem lại sự no cơm ấm áo cho toàn nhân loại.
Thiên
Long Vương, ở trên Thiên Cung lâm phàm đầu thai xuống thế, khai sinh ra nước
Xích Quỷ, mở ra thời đại Kinh Dương Vương. Truyền xuống chín đời, tới đời thứ
mười, thời chuyển sang giai đoạn thời đại Hùng Vương, nước Xích Quỷ được mở
rộng trở thành nước Văn Lang, 2959 trước Công Nguyên. Anh Linh Quốc Tổ, thời
đại Kinh Dương Vương, thường hiện về để lại dấu chân khắp nơi, với hình thể
người mây khổng lồ to lớn, để lại dấu chân cũng to lớn.
Người
Nam Văn Lang gọi là dấu chân ông Đổng, người Bắc Văn Lang gọi là dấu chân ông
Khổng Lồ. Anh Linh Quốc Tổ hiện về không chỉ là hình người, mà chuyển hình
người thành hình đám mây che phủ cả một vùng rộng lớn, sau đó thời mưa như
trút, những cơn mưa trái mùa, làm cho ao hồ, suối sông, sung mạch trở lại,
người dân được trúng mùa lớn. Lúc thời chuyển thân thành hình xoắn ốc, tạo ra
những cơn bão lốc, cuốn đi tất cả những ai ăn lộc Trời mà không biết kính trọng
Trời, những kẻ bất kính đối với đấng sanh thành Tạo Hóa.
Chuyện
lạ ấy cứ xuất hiện mãi, ăn sâu vào tâm thức của mỗi người dân. Có những lần dân
thấy Anh Linh Quốc Tổ hiện về, tạo ra cảnh mưa to gió lớn trái mùa, chỉ trong
vòng có một ngày mà khai ra nhiều dòng chảy, thành sông thành lạch, đem phù sa
về bồi đắp cho làng quê, dân chúng lại trúng mùa lớn, càng thêm no cơm ấm áo.
Người dân Nam Văn Lang đã quen gọi sự Anh Linh Quốc Tổ là Ông Đổng.
Có
lần dân thấy Ông Đổng tuy là người mây, nhưng lại có hai con mắt sáng chóa. Bàn
tay Ông Đổng hể chạm xuống núi, là núi đó không còn, chỉ trong vòng một đêm
ngọn núi biến mất, vì Ông Đổng trút nước xuống làm trôi đi hết, Ông đem đất ấy
lấp xuống chỗ sâu, tạo ra những cánh đồng bát ngát, dân chúng vì thế mà có
nhiều ruộng để canh tác. Nơi nào xem nhẹ quyền Tạo Hóa, xem thường Thiên Ý của
Trời, thời Ông Đổng sẽ lấy đi tất cả, mùa màng thất bát, đồng khô cỏ cháy, vì
không có những cơn mưa trái mùa, đói khổ vô cùng.
Có
lần dân chúng thấy Ông Đổng, có lần tạo ra những cơn mưa trái mùa khai ra dòng
chảy, vun đất thành đồi, tạo ra sấm sét đánh tan những cơn dịch bịnh, hơi thở
Ông Đổng phun ra mây đen cuồn cuộn, làm dịu đi cơn nóng oai bức. Ông Đổng khổng
lồ thường xuất hiện trong những ngày đầu hè, giữa hè, cuối hè, đem lại nguồn
nước Trời, cho cây cối, hoa màu, ngô, lúa, tốt tươi.
Anh
Linh Quốc Tổ xuất hiện để lại dấu chân khắp nơi, nhưng nhiều nhất là ở làng
Gióng, nổi tiếng là quê hương xứ sở vườn cà, cà ở làng Gióng coi như là đặc sản
được đưa đi giao dịch trao đổi khắp nơi. Và cũng từ làng Gióng nầy, xảy ra một
kỳ tích được coi như là một huyền thoại chuyện lạ nhất trên đời truyền tụng mãi
cho đến ngày nay.
Bắt đầu từ câu chuyện vườn cà.
Xốm dừa nhìn bãi dâu xanh
Gió thu ru nhẹ lá cành làng quê
Cánh cò bay lã bay la
Bay qua bến nước bờ tre ruộng đồng
Trâu nhìn đò chạy trên sông
Mục đồng chăm chú nhìn trông cánh dều
Khói lam tìm ánh nắng chiều
Đàn chim nhẹ cánh tìm về núi non
Bao la trời nhớ đất thương
Non xanh nước
biết vấn vương đất trời
Ánh trăng vằn vặt
đêm về
À ơi tiếng hát ngọt lành mẹ ru
Ánh đèn soi dáng người thân
Sạm da vì bỡi gió sương tháng ngày
Hồ thu nhớ ánh trăng đầy
Nhớ hừng đông dậy, nhớ gà báo tin
Gâu gâu chó hỏi người đi
Vườn cà làng Gióng có ai giữ gìn
Người rằng có một người hiền
Tên là Phù Thị xấu người đẹp tâm
Mười năm ở với Đức ông
Công, dung, ngôn, hạnh, khéo khôn ai bì
Đức ông cảm thấy hài lòng
Xem như con cái chẳng hề so đo
Vườn cà chăm sóc sớm hôm
Lòng vàng tỏa sáng còn hơn ngọc ngà
Tiếng hiền cứ mãi bay xa
Đến tai Thượng Đế, Trời Cha, Chúa Trời
Huyền cơ chuyển biến tất thời
Thiên Long Sùng Lãm xuống trần đầu thai
Vườn cà để lại dấu chân
Trong đêm mưa gió bão dông đùng đùng
Bình minh rực rỡ chân trời
Gió thu hôn nhẹ vườn cà xanh xanh
Phù Thị nhẹ gót nhanh nhanh
Vườn cà một lược nên hư thế nào
Chợt nhìn kinh ngạc làm sao
Dấu chân to lớn nao nao lòng người
Phù Thị ướm thử chân vào
Tự nhiên thấy cả thân người chuyển rung
Tâm hồn kinh hãi hoang mang
Trong người khác lạ càng thêm hãi hùng
Từ đây Phù Thị âm thầm
Dấu đi tất cả những gì xảy ra
Ngày qua tháng lại ngày qua
Bụng càng to lớn dấu đi được nào
Tránh sao được tiếng xì xào
Không chồng mà chửa phạm vào làng qui
Cuộc đời họa phúc éo le
Mấy ai tránh khỏi xưa nay thường hằng
Sau đây câu chuyện của người
Sử Kinh để lại cho đời xem coi
Sự đời là tấm gương soi
Cho bao thế hệ đời sau răn mình.
Ở
vào thời hạ Hùng Vương, đời Hùng Vương thứ 6 Hùng Huy Vương, 961 đến 893 trước
Công Nguyên, ở bộ Vũ Ninh, Huyện Tiên Du, nơi làng Gióng. Có hai vợ chồng gàu
có, là nhờ những vườn cà do ông bà Tổ Tiên để lại, nổi tiếng là đối nhân xử
thế, ăn ở phúc Đức, nên dân làng thường gọi hai ông bà là Đức ông , Đức bà.
Đức
ông, Đức bà chỉ nuôi một người làm vườn, tên là Phù Thị, quê ở làng Phù. Cũng
giống như Đức ông Đức bà, hiền lành nức tiếng, nhưng phải người hơi xấu, không
được dễ coi, nên không có người dạm hỏi, tuổi thanh xuân vì thế mà trôi qua,
tuổi trung niên như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã hơn bốn mươi tuổi, hơn hai
mươi năm ở với Đức ông Đức bà Phù Thị lúc nào cũng xem Đức ông Đức bà như Cha
Mẹ của mình, Đức ông Đức bà cũng vậy vì không có con, nên coi Phù Thị như con.
Thời gian không chờ đợi ai cứ mãi trôi qua, hết ngày nầy đến ngày khác, hết năm
nọ đến năm kia, Phù Thị sống cuộc sống bình yên, như mặt nước hồ thu không gợn
sóng.
Chữ ngờ ai biết được đâu
Chỉ trong nháy mắt bể dâu cuộc đời
Hồ thu nổi sóng ngậm ngùi
Phải chăng số phận con người Trời ban.
Ở
làng Gióng trải qua một đêm mưa gió, sấm chớp hải hùng, hoa màu bị hư hại. Khác
hơn mọi khi Phù Thị hôm nay dậy rất sớm, vì lo sợ vườn cà bị mưa to gió lớn làm
hư hại. Trời vừa hừng sáng Phù Thị đã ra vườn cà, thời vô cùng ngạc nhiên vì
vườn cà vẩn xanh tốt, như không có chuyện gì xảy ra, trong khi các vườn cà nhà
kế bên xơ xác. Phù Thị nghĩ có lẽ Đức ông Đức bà ăn ở hiền lành nên có Thần
Linh che chở bảo hộ, nên vườn cà không bị hư hại như thế nầy, Phù Thị đang đi
xem xét các luống cà, bổng phát hiện một dấu chân to lớn. Bà Phù Thị lấy chân
mình ướm thử vào, để xem thua kém bao nhiêu, không ngờ vừa ướm chân vào thời
thấy toàn thân rung động, chạy khắp người bà Phù Thị vô cùng kinh hãi, không
dám kể lại chuyện kỳ lạ nầy với Đức ông Đức bà.
Không
ngờ sự ướm chân thử đó, bà Phù Thị dần dần mang thai, cái bụng càng ngày càng
lớn.
Đức
ông Đức bà kêu Phù Thị hỏi:
Cha nó là ai? Quê quán nơi đâu?
Phù
Thị cứ mãi làm thinh không nói ra sự thật. Đức ông Đức bà giận lắm quát mắng:
Ta không ngờ ngươi là con đàn bà cứng đầu
không biết lễ giáo như thế, làm những chuyện tày trời, mà không biết xấu hổ gì
cả.
Phù
Thị biết rưng rưng nước mắt nói:
Ông bà tha tội cho con, chuyện nầy con đâu
có muốn, nhưng số con như thế con đành phải chịu.
Bây giờ đã ra người tội lỗi
Mặt cho đời nước chảy hoa trôi
Hóa công sao khéo trêu ngươi
Một mình một cảnh như người lạ xa
Phước trong họa chuyển xây nao ngán
Nhằm thân nghèo xấu xí mà xây
Nhân duyên số phậm láy lay
Chờ xem tạo hóa chuyển xây cuộc đời.
Trong
khi ấy dân làng cứ mãi xầm xì, bàn tán lan rộng ra khắp các vùng, tai tiếng của
Đức ông Đức bà không nhỏ. Nhất là Đức ông là người mang tiếng hơn hết: Nào là
Đức ông lấy con ở, cũng phải thôi phải có người nối dòng, nối dõi chứ, ăn ở
hiền lành mà tuyệt nòi tuyệt giống sao được. Nhất là Đức bà vì không chịu được
sự đàm tiếu nầy, bằng yêu cầu làng xét xử. Ngày xét xử bà Phù Thị, không những
người trong làng Gióng, mà nhiều người dân trong các làng lân cận cũng kéo đến
xem. Lạc Điền là vị Quan làng nghiêm khắc đã từng xử không biết bao nhiêu vụ,
nhưng đều trôi chảy êm xuôi, để được làm rõ vấn đề.
Vị
Quan làng hỏi:
Nầy bà Phù Thị, Cha của đứa bé trong bụng là
ai? Tại sao không chịu ra mặt nhận trách nhiệm của mình. Bà cứ nói thật đi ai
là Cha của đứa bé trong bụng.
Bà
Phù Thị không sợ hãi gì cả, trả lời thẳng thắng:
Đứa bé trong bụng là con của Ông Đổng.
Những
người đến nghe đều giật cả mình, ông Quan làng há mồm trợn mắt, Đức ông Đức bà
như muốn bật ngửa.
Ông
Quan lấy lại bình tỉnh hỏi:
Bà Thị bà nói sao, đứa bé trong bụng bà là
con Ông Đổng. Bà không sợ Ông Đổng bẻ cổ bà sao?
Và
ai cũng nghĩ bà Thị đã hóa điên, xúc phạm đến Thần Linh. Quan làng hỏi:
Ông Đổng ăn ở với bà thế nào?
Bà
Phù Thị dõng dạc nói:
Không ăn ở thế nào cả, tôi chỉ ướm chân tôi
vào chân của Ông thế là tôi đã mang thai.
Nghe
bà Thị trả lời như thế ai nấy đều cười ồ lên, có người nói mỉa mai rằng:
Mai tôi tới những chỗ có dấu chân ông Đổng
ướm vào để sinh con.
Và
ai cũng cho bà Thị là người làm bậy xấu hổ quá hóa điên, Đức ông coi như không
dính liếu gì đến vụ nầy, nên không tham gia ý kiến tùy Quan làng xét xử.
Lạc
Điền, Quan làng tức giận nói:
Bà nói toàn là những chuyện vô căn cứ, lừa
dối mọi người, với cái tội không chồng mà chửa làm xấu mặt cả làng.
Cùng
lúc xét xử ấy cũng không ít người mắn nhiếc bà, có người mắn nhiếc thậm tệ. Bà
Phù Thị chỉ biết rơi nước mắt, chấp nhận số phận, mà Đấng Tạo Hóa đã an bày.
Chỉ trong chốc lác bà già đi thấy rõ, có người thương xót cho số phận của người
con gái không may mắn xinh đẹp như người ta, giờ lại thêm tai họa giáng xuống.
Hồng trần trong cõi người ta
Mấy ai thoát khỏi nạn tai cuộc đời
Thương người cũng chính thương mình
Hại người Trời hại thường tình xưa nay.
Dân
làng Gióng cứ nghĩ bà Phù Thị vụng trộm ăn ngủ với người ta không chịu khai
nhận tội một mình. Để lắng dịu sự mắn nhiếc của dân làng.
Quan
làng xử như sau: Theo hương ước của làng, thời tội nầy đáng xử tử, nhưng nể Đức
ông Đức bà, chỉ trục xuất bà Phù Thị ra khỏi làng.
Bà
Phù Thị biết không còn ở với dân làng được nữa, một mình lủi thủi đi về nơi
rừng núi cách làng Gióng khá xa.
Lủi thủi xa làng đến núi non
Chân đầy nặng triểu bụng mang con
Chim kêu vượn hú lòng trống vắng
Thảo mãng hoang vu dạ sắc son.
Bà
đến gần mé rừng ngồi dưới một gốc cây, bà nhìn những chiếc là vàng, rời khỏi cành
trở về với đất, một nổi niềm cay đắng, biết tỏ cùng ai.
Lá vàng nầy hỡi lá vàng rơi
Lá theo cánh gió về nơi Cội Nguồn
Còn ta lạc bước phong sương
Rừng xanh che chở náo nương tháng ngày.
Bà
Phù Thị mệt lã ngủ thiếp đi lúc nào không hay, đến khi thức dậy thời thấy chim
muôn vạn thú đến ở xung quanh bà, chúng đem đến nhiều trái cây hoa quả, bà đã
đói mấy ngày, nên bốc lấy ăn ngấu nghiến. Đêm về các nàng Tiên hiện đến dựng
cái chòi tranh để cho bà ở, hơn cả tháng dân làng không biết, dân làng không
thấy bà xuất hiện, hàng đêm nghe tiếng hổ gầm voi hú, dân làng đồn rằng bà bị
cọp ăn thịt rồi, có người cũng lấy làm thương xót cho số phận con người, ngày
lại ngày qua bà sống bình yên trong túp lều tranh.
Thế là cuộc sống tạm yên
Non xanh nước biếc cũng yêu Thị bà
Rừng xanh sai quả sai hoa
Để bà sanh sống vượt qua cơ hàn
Sống đời cô độc một mình
Sớm chiều làm bạn thú cầm mua vui
Xuống đồng bắt ốc mò cua
Đem ra làng đổi kiếm ăn qua ngày.
Bà
Phù Thị ngoài ăn hoa quả, bà còn xuống đồng, xuống mương bắt ốc mò cua sanh
sống còn đem ra làng đổi lấy gạo, nuôi thân. Dân chúng thấy bà xuất hiện vô
cùng kinh ngạc bà không bị cọp ăn thịt sao, không thể tin được, ở một mình
trong rừng hơn cả tháng mà vẩn bình yên đây mới là chuyện lạ. Ban đầu dân còn
ấn tượng không tốt với bà, có những ngày không đổi được gạo đành đem cua ốc về
nấu ăn. Nhưng vì cuộc sống nuôi thân nuôi con, bà luôn luôn nhẫn nhịn, nhẫn
nhục, nhẫn nại, chịu khó dần dần dân chúng không còn ghét bà nữa, ngược trở lại
thương bà, từ đó bà mò cua bắt ốc đổi lấy gạo rất thuận lợi. Bà yêu chim thú
như yêu bản thân mình, nên chim thú thường đến với bà, và gúp đở bà, trong
những ngày mưa gió, cũng như những ngày bà không bắt ốc mò cua.
Lòng chân thật động lòng chim thú
Làm bạn đời khuya sớm có nhau
Màn trời chiếu đất náo nương
Hổ, voi, chim chóc đến chung một nhà
Chim ca hát, hổ gầm voi hú
Làm trò vui giải trí giải sầu
Làm cho người mẹ vui vầy
Quên đi nổi khổ tháng ngày cô đơn.
Dân
làng thấy bà Phù Thị ở nơi hoang vu rừng núi, chim kêu vượn hú, tối về hổ voi
gầm rú suốt đêm, mà bà Phù Thị vẩn bình yên, không hề hấn gì cho là có Thần
Linh che chở, nên không coi Phù Thị là người xấu nữa. Có những lần bà Phù Thị
xuống đồng mò cua bắt ốc, nhưng không được bao nhiêu.
Bà
liền khấn vái rằng: Nếu Trời thương hại mẹ con tôi, thời cho tôi bắt thật nhiều
cua ốc, thế là bà mò đến đâu thời có cua có ốc đến đó.
Nên
lúc nào cũng bắt được nhiều cua ốc, đổi được nhiều gạo dự trử nuôi thân, trong
lúc những ngày mưa gió. Dân làng thấy bụng bà đã lớn, biết cũng sắp đến ngày
sanh nở, có người thương còn cho thêm gạo. Có một hôm bọn trẻ con thấy bà Phù
Thị một mình trở lại rừng xanh, bằng hát rằng.
Lanh quanh đường đến rừng xanh
Có người phụ nữ bước chân nặng nề
Vai mang gạo bụng thè lè
Chịu thương chịu khó ai bì được đâu.
Sau
có người hỏi:
Ai dạy cho mà hát như vậy?
Bọn
trẻ trả lời:
Có một Ông Già xuất hiện dạy hát như thế.
Bổng
một hôm bà Phù Thị, nghe trong mình khác lạ, bằng tính đi tính lại, mang thai
đã tròn mười hai tháng. Thường thường mang bầu chín tháng mười ngày là sinh, có
những lần bà Phù Thị nghĩ: Thánh đầu thai nên mới khác thường như vậy. Bà
thường nghe có người mang thai đến ba năm mới sanh, và bà vẩn cứ chờ đợi ngày
khai hoa nở nhị, và rồi ngày đó cũng đến. Bà thấy trong mình chuyển dạ, lòng
bổng lo lắng ở nơi hoang vu rừng núi thời biết nhờ ai giúp đở, bà thở dài thôi
thì mặt cho số phận vậy.
Nghe trong dạ từng cơn đau thắt
Như báo rằng con sắp chào đời
Niềm vui quên hết đau thời
Chỉ mong con trẻ rạng ngời bình yên
Kìa rừng đã lặng yêm đêm phủ
Sương đã về ru ngủ tịnh yên
Cô đơn trong lúc đẻ sinh
Chỉ nghe gió thổi rung rinh căn lều
Đèn không có mịt mù tăm tối
Sao chị hằng chậm thế chưa lên
Ruột càng quặn thắt liên miên
Bổng nghe hương tỏa lan thơm khắp cùng
Nghe trong dạ nhẹ nhàng nhẹ bổng
Nhiều nàng Tiên bồng ẳm hài nhi
Mệt nhoài bà đã thiếp đi
Chừng nghe chim hót mới hay sáng trời
Nhìn con trẻ lòng đầy sung sướng
Con của ta là Gióng, Gióng ơi
Bình minh rực rỡ chân trời
Bao la rừng núi tràn đầy ấm êm.
Nói
về bà Phù Thị thấy trong mình chuyển dạ, thời đã biết mình sắp sinh, nhưng ở
nơi hoang vu rừng núi nầy, biết nhờ cậy ai, trời đã lặng, đèn không có, chỉ còn
biết trông chờ ánh trăng lên, bà bổng thấy một con Rồng xuất hiện rồi biến mất,
sau đó thời sanh con, hương thơm lan tỏa khắp nơi. Bà thấy Tiên nữ xuất hiện,
bồng ẳm hài nhi nhưng vì mệt quá bà đã thiếp đi và không còn biết gì nữa, chừng
nghe tiếng chim hót liếu lo giật mình tỉnh giất, thời mới hay trời đã sáng, ánh
bình minh đã tràn về khắp núi non, một ngày mới, một ngày đẹp nhất của đời bà,
các nàng Tiên cũng biến đi đâu mất, chỉ còn nghe mùi hương thơm lan tỏa khắp
nơi.
--------------
HẾT QUYỂN 3.
COMMENTS