QUỐC BẢO CHÂN KINH VĂN LANG CHIẾN SỰ 3 THIÊN ẤN THIÊN BÚT GÒ HỘI ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI 2013 Ng...
QUỐC BẢO CHÂN KINH
VĂN LANG
CHIẾN
SỰ
3
THIÊN ẤN THIÊN BÚT
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI
2013
Nguyễn Đức Thông
QUYỂN 4
PHẦN 28
Câu
Tiễn đã đi đến địa giới nước Ngô, sai Phạm Lãi vào yết kiến quan Thái Tế là
nước Ngô là Bá Hi ở Ngô Sơn và dâng vàng lụa, trai, gái.
Bá
Hi không thấy Văn Chủng liền hỏi:
Văn Chủng đâu sao không thấy đến ?
Phạm
Lãi nói:
Văn Chủng còn phải giữ nước cho Chúa Công,
nên không đến được.
Bá
Hi theo Phạm Lãi đến gặp mặt Câu Tiễn. Câu Tiễn cảm tạ cái ơn giúp cho. Bá Hi
hứa với Câu Tiễn thế nào cũng lập mưu cho Câu Tiễn trở về nước Việt Trung
Nguyên. Câu Tiễn nghe Bá Hi hứa như vậy cũng thấy hơi yên lòng. Bá Hi cho quân
giải Câu Tiễn về Ngô đưa vào nạp Phù Sai. Câu Tiễn trần vai áo. Sụp lạy ở dưới
thềm, Câu Tiễn Phu Nhân cũng theo vào. Phạm Lãi đêm cái đơn kê khai các vật quý
và mỹ nữ dâng lên Phù Sai.
Câu
Tiễn sụp lạy hai lạy mà kêu rằng:
Tôi tới nhà vua Việt Trung Nguyên ở miền
Đông Hải là Câu Tiễn vì không tự lượng sức mình để đến nổi đắc tội với Đại Vương.
Nay Đại Vương xá tội lại cho được sang đây hầu hạ, nếu Đại Vương thương tình mà
tha cho tội chết thời lấy làm đội ơn vô cùng.
Phù
Sai nói:
Nếu ta nghĩ đến cái thù Tiên Vương ngày xưa
thời không thể nào tha cho nhà ngươi được.
Câu
Tiễn lại lạy mà kêu rằng:
Tội tôi thật đáng chết xin Đại Vương thương
lại cho.
Bấy
giờ Ngũ Viên đứng bên cạnh vua Ngô mắt trợn trừng quắc ra lửa, tiếng vang như
sấm nói với Câu Tiễn rằng:
Con chim bay ở trên mây xanh, ta còn giương
cung ra bắn huống chi nay nó lại đậu ở trước sân.
Câu
Tiễn vốn là người nham hiểm, bây giờ như con cá nằm trong hũ, sống chết ở trong
tay kẻ nhà bếp. Vậy nên nịnh hót van lạy để cầu khỏi chết, một mai đắc chí,
khác nào như con Hổ về núi, con cá Kình ra biển, còn làm gì được.
Phù
Sai nói:
Ta nghe nói người đã hàng phục mà mình còn
giết thì họa đến ba đời. Ta không phải vì yêu Vua Việt mà không giết, nhưng sợ
trái với Đạo Trời.
Bá
Hi nói:
Quan tướng quốc chỉ nghĩ đến cái lợi trước
mắt một lúc, mà không hiểu cái lợi yên nước về sau. Đại Vương suy xét nói thế,
thật quả là một bậc nhân giả quân Vương.
Ngũ
Viên thấy Phù Sai tin lời dụ nịnh của Bá Hi, không theo lời can của mình, thời
căm tức mà lui ra. Phù Sai nhận lễ vật của Câu Tiễn, rồi sai Vương Tôn Hùng làm
một cái nhà đá ở bên cạnh Hạp Lư, giam vợ chồng Câu Tiễn ở đấy lột áo mão đi mà
cho mặt cho mặt quần áo xấu thậm tệ của những dân đen cho ăn cơn hẩm hôi thiêu
lúc đói lúc no khốn khổ. Bắt chăng ngựa làm đủ những điều cực nhọc.
Bá
Hi vì nhận quá nhiều của đút lót nên cho người bí mật đêm thực phẩm ăn no đến
cho vợ chồng Câu Tiễn. Mỗi khi Phù Sai đi chơi lại bắt Câu Tiễn cầm roi ngựa đi
chân đất ở trước xe cho quân binh dân chúng xem.
Dân
chúng nước Ngô đều trỏ vào Câu Tiễn mà bảo nhau rằng: Người nô lệ kia rách rưới
cầm roi chăng ngựa đi trước ngựa Đại Vương chính là vua Việt Trung Nguyên đấy
thê thảm quá nhục nhã quá đáng đời cho cái tội không tự lượng sức của mình. Nếu
như tôi thà chết quách còn hơn là sống không ra sống, chết không ra chết.
Câu
Tiễn chỉ cúi đầu mà đi. Câu Tiễn ở nhà đá được hai năm. Phạm Lãi sớm tối hầu
hạ, không rời một bước luôn khuyên Câu Tiễn cố mà luồn cúi nhịn nhục. Một hôm
Phù Sai triệu Câu Tiễn vào yết kiến. Câu Tiễn sụp lạy. Phạm Lãi đứng ở phía
sau.
Phù
Sai bảo Phạm Lãi rằng:
Ta nghe nói gái khôn không lấy chồng ở nơi
cửa nhà tan nát, danh hiền không làm quan ở một nước diệt vong. Nay Câu Tiễn vô
đạo, nước đã sắp diệt, vua tôi đều làm nô bộc, bị giam cầm ở trong nhà tù chẳng
cũng đã nhục lắm rùi. Ta muốn tha tội cho nhà ngươi, nếu nhà ngươi biết đổi lỗi,
bỏ Việt theo Ngô thời ta sẽ trọng dụng nhà ngươi đó là bỏ ưu hoạn mà lấy phú
quý. Nhà ngươi nghĩ thế nào?
Bấy
giờ Câu Tiễn đang quỳ phục đưới đất mà khóc, chỉ sợ Phạm Lãi theo Ngô mất.
Phạm
Lãi sụp lạy mà tâu với Phù Sai rằng:
Kẻ đã mất nước, không dám nói hay, tướng đã
thua trận không dám nói mạnh. Tôi là kẻ bất trung bất tín ở nước Việt, không biết
giúp Chúa Công tôi làm điều thiện, để đến nổi đắc tội với Đại Vương. May mà Đại
Vương không giết, cho vua tôi được gần nhau, để vào hầu hạ Đại Vương, thế là
tôi đã được mãn nguyện lắm rồi còn đâu dám mong phú quý.
Phù
Sai nói:
Nhà ngươi đã không chịu đổi ý thời lại cứ về
nhà đá sống trong tù ngục.
Phạm
Lãi nói:
Xin vâng mệnh.
Phù
Sai đứng dậy trở về cung. Câu Tiễn và Phạm Lãi trở về nhà đá sống trong cảnh
ngục tù. Câu Tiễn ăn mặt tồi tàn, làm việc suốt ngày, cắt cỏ nuôi ngựa. Câu
Tiễn Phu Nhân cũng ăn mặt tồi tàn rách rưới, đi gánh nước để quét dọn phân
ngựa. Còn Phạm Lại thời đi kiếm củi để nấu củ pha lẫn ít gạo mà ăn sống qua
ngày. Vợ Chồng Câu Tiễn cũng như Phạm Lãi mặt mũi gầy gò chẳng khá gì những
người dân đen đói khổ.
Phù
Sai trong suốt thời gian giam giữ Câu Tiễn, Phạm Lãi cho người theo dõi thấy
vua tôi nước Việt cực khổ lao động suốt ngày mà không đủ no, áo quần rách rưới
cũng không thấy buồn rầu chút nào mới cho là đồ vô chí hằng chi bại dưới tay ta
cũng phải, người như thế mà làm nên trò trống gì. Phù Sai không cần bận tâm
nghĩ đến nữa.
Một
hôm Phù Sai lên Cô Tô đài trông thấy vợ chồng Câu Tiễn ngồi ở cạnh đống phân
ngựa chẳng khác gì dân đen tầm thường, Phạm Lãi cầm chỗi quét rác đứng hầu một
bên.
Mới
ngoảnh lại bảo Bá Hi rằng:
Câu Tiễn tuy là vua một nước, nhưng là đồ vô
chí không có chí Hùng Bá, cũng là người tầm thường. Phạm Lãi chẳng qua là kẻ
học trò. Nhưng không bỏ khi vua hoạn nạn, mà còn giữ được lễ vua tôi ta rất có
lòng kính trọng.
Bá
Hi nói:
Chẳng những đáng kính phục, thực cũng đáng
thương.
Phù
Sai nói:
Bắc Văn Lang Việt Trung Nguyên có lòng trung
hiếu quật cường là do truyền thống con Rồng cháu Tiên ung đúc tạo nên, nên rất
khó đánh chiếm hàn phục được. Nhưng theo ta thấy thời không đúng sự thật. Câu
Tiễn là vua một nước đứng đầu dân chúng triều thần, cũng chỉ là kẻ tham sống sợ
chết cúi đầu lạy dạ khiếp sợ trước oai linh của nước Ngô Ta. Cũng như lời quan
Thái Tế nói. Ta đây nghĩ cũng thương tình nếu hắn biết lỗi thời có nên tha
không?
Bá
Hi nói:
Đại Vương mở lượng hải hà mà thương kẻ cùng
khốn gia ân cho Vua Việt chắc là Vua Việt cũng biết đền ơn. Xin Đại Vương phải
tự quyết đoán.
Phù
Sai nói:
Ta sẽ chọn ngày tốt để tha cho Vua Việt về
nước.
Bá
Hi mật cho người báo tin cho Câu Tiễn biết. Câu Tiễn mừng lắm nói với Phạm Lãi.
Phạm
Lãi nói:
Để thần bói một quẻ, xem lành dữ thế nào.
Phạm
Lãi bói xong nói với Câu Tiễn rằng:
Dẫu có tin như vậy, cũng chưa nên lấy làm
mừng.
Câu
Tiễn nghe nói có ý làm buồn. Ngũ Viên nghe tin Phù Sai sắp tha Câu Tiễn, vội
vàng vào yết kiến Phù Sai mà tâu rằng:
Ngày xưa Vua Kiệt giam vua Thành Thang mà
không chết. Vua Trụ giam Văn Vương mà không giết. Đến lúc đạo trời xoay chuyển.
Chuyển họa thành phúc, chuyển bại thành thắng, chuyển nhục thành vinh, thời Vua
Kiệt bị Vua Thang đuổi. Nhà Thương bị nhà Chu diệt. Nay Đại Vương giam Câu Tiễn
mà không giết, tôi e rằng sắp có họa như Nhà Hạ cũng như Nhà Thương.
Phù
Sai nghe Ngũ Viên nói cũng có lý vì gương lịch sữ vẩn sờ sờ trước mắt. Phù Sai
có ý muốn giết Câu Tiễn bèn sai người triệu Câu Tiễn vào. Bá Hi lại báo trước
cho Câu Tiễn biết là Phù Sai định giết Câu Tiễn theo lời đề nghị của Ngũ Viên.
Câu Tiễn kinh sợ lại nói với Phạm Lãi.
Phạm
Lãi nói:
Chúa Công đừng sợ. Vua Ngô đã giam Chúa Công
đã ba năm nay. Trong ba năm còn không nở xuống tay, huống chi bây giờ, Chúa
Công cứ đi không ngại.
Câu
Tiễn nói:
Ta chịu ẩn nhẫn bấy lâu nay không đến nỗi
chết đều là nhờ mưu kế của quan đại phu cả.
Câu
Tiễn lấy lại tự tin vào thành yết kiến Phù Sai. Phải chầu chực quỳ lạy đến ba
ngày mà không thấy Phù Sai ra thượng triều. Bá Hi ở trong cung ra phụng mệnh
Phù Sai truyền cho Câu Tiễn về nhà đá. Câu Tiễn lấy làm lạ liền hỏi.
Bá
Hi nói:
Đại Vương nghe lời Ngũ Viên, định đem giết
Ông vậy, nên triệu Ông đến để giết. Cũng may gặp lúc Đại Vương bị cảm không thể
dậy được.
Tôi
vào thăm bệnh nhân tâu với Đại Vương rằng:
Người bệnh muốn cầu yên thời phải làm phúc
nay vua Việt đang chầu chực ở đây, chỉ đợi ngày chịu chết, oán khí xông lên đến
Trời. Đại Vương nên tạm tha cho y trở về nhà đá, đợi khi khỏi bệnh rồi sẽ định
liệu.
Vì
nghe lời tôi mà Đại Vương tạm tha cho ngài về nhà đá quyết định sinh mạng của
ngài sau.
Câu
Tiễn cảm tạ không xiết, ở nhà đá được ba tháng Câu Tiễn nghe tin Phù Sai vẩn
chưa khỏi bệnh, mới bảo Phạm Lãi bói một quẻ.
Phạm
Lãi bói xong bảo Câu Tiễn rằng:
Phù Sai không chết ngày Tỵ thời bớt, đến
ngày Nhâm thời khỏi. Đây là cơ hội Đại Vương Chúa Công cố xin vào thăm. Khi
được vào thăm Đại Vương cố tình nếm phân cho Phù Sai để đoán ra bệnh rồi nói
ngày khỏi bệnh, đến kỳ khỏi bệnh đúng như lời nói của Chúa Công Đại Vương thời
tất nhiên y cảm ơn mà tha cho Đại Vương.
Câu
Tiễn ứa nước mắt mà nói rằng:
Ta đây dẫu chẳng ra gì nhưng cũng là một Ông
Vua không nhẽ lại nếm phân cho người chịu nhục đến thế sao?
Phạm
Lãi nói:
Ngày xưa Vua Trụ giam Văn Vương ở Dữu Lý.
Vua Trụ giết con Văn Vương là Bá Ấp Khảo rồi ướp thịt đưa cho Văn Vương ăn. Thế
mà Văn Vương cố nén đau đớn mà ăn thịt con. Chúa Công muốn thành đại sự thời
cần chi để ý những điều nhỏ mọn. Vua Ngô lòng thương người như đàn bà, mà không
có lòng quả quyết như kẻ trượng phu. Đã toan tha rồi đổi ý. Nếu ta không làm
thế thời làm gì qua mặt được Phù Sai, làm sao Vua Ngô rũ lòng thương mà tha cho
chúng ta, nhờ sự nhẫn nại, nhẫn nhịn, nhẫn nhục cao chúng ta mới có thể qua
khỏi kiếp nạn nầy.
Câu
Tiễn tức khắc sai Phạm Lãi đến nói với Bá Hi rằng Chúa Công tôi nghe nói bệnh
tình Đại Vương không thiên giảm, Chúa Công tôi lo lắng ăn ngủ không yên nên sai
tôi đến cầu xin ngài cho Chúa Công tôi theo ngài vào thăm Đại Vương, để tỏ chút
tình thành kính.
Bá
Hi suy nghĩ một giây lác cho đó là dịp may có thể cứu sống được Câu Tiễn thời
cái lợi lớn về sau một sức mà thừa hưởng.
Bá
Hi nói:
Câu Tiễn ngài có lòng tốt, để tôi xin chuyển
tấu.
Bá
Hi vào yết kiến Phù Sai, bày tỏ cái tình Câu Tiễn nhớ mến, xin vào thăm bệnh.
Phù Sai đang khi cơn bệnh trầm trọng, nghĩ thương tình Câu Tiễn mà cho vào. Bá
Hi đưa Câu Tiễn vào thăm Phù Sai.
Phù
Sai trừng mất nhìn mà bảo rằng:
Câu Tiễn cũng vào thăm ta đó à?
Câu
Tiễn sụp lạy mà tâu rằng:
Kẻ bề tôi ở trong tù nghe nói Đại Vương Long
Thể bất hòa, thật là nát gan héo ruột chỉ mong được trông thấy mặt Rồng mà
không biết phải làm thế nào.
Câu
Tiễn nói chưa dứt lời thời Phù Sai đau bụng muốn đi ngoài, mới lấy tay xua bảo
Câu Tiễn ra.
Câu
Tiễn nói:
Khi Tôi ở đông hải có học người y sư, học
được cách xem phân biết bệnh chính xác, bệnh chóng khỏi hay kéo dài trầm trọng.
Nhờ thế mà bốc thuốc chính xác chữa trị khỏi bệnh ngay.
Câu
Tiễn nói xong chấp tay đứng ở cửa sổ. Nội thị đưa cái thùng đến cạnh gường nằm,
rồi vực Phù Sai dậy đi ngoài. Phù Sai đi ngoài xong rồi nội thị bưng cái tùng
đưa ra ngoài cửa. Câu Tiễn mở nắp thùng ra, thò tay bốc phân rồi quỳ xuống mà
nếm. Mọi người xung quanh đều bịt cả mũi.
Câu
Tiễn lại vào sụp lạy Phù Sai mà tâu rằng:
Kẻ tù nầy xin chúc mừng Đại Vương, bệnh Đại
Vương đến ngày Kỷ Tỵ thì bớt, sang tháng ba về ngày Nhâm Thân thời khỏi hẳn
không cần thuốc thang gì cả. Đó cũng là nhờ cái đức của Đại Vương trùm bá thiên
hạ mà khỏi bệnh.
Phù
Sai nghe Câu Tiễn quả quyết về bệnh tình mình như vậy liền hỏi:
Nhà ngươi căn cứ vào đâu mà quyết đoán bệnh
tình của ta như vậy?
Câu
Tiễn nói:
Tôi thường nghe y sư chỉ dạy phân là gốc của
vị, hể thuận thời khí thời vô bệnh mà sống lâu, hể trái thời khí thời phát bệnh
có khi dẫn đến cái chết. Nay kẻ tù nầy nếm phân Đại Vương thấy vị đắng và chua,
chính hợp cái thời khí Xuân, Hạ phát sinh biến động trong cơ thể chỉ làm tăng
tuổi thọ Đại Vương mà thôi. Nên bề tôi mới quả quyết bệnh tình Đại Vương chóng
khỏi không cần thuốc thang như vậy.
Phù
Sai nghe Câu Tiễn nói vô cùng bùi tai. Phù Sai bằng lòng nói rằng:
Câu Tiễn nhân đức thay. Thần tử đối với quân
phụ, ta chưa thấy ai chịu nếm phân đoán bệnh bao giờ.
Bấy
giờ nhân Bá Hi đứng cạnh Phù Sai bèn hỏi rằng:
Quan Thái Tế có nếm được không?
Bá
Hi lắc đầu nói:
Thần thật rất yêu Đại Vương, nhưng việc ấy
Thần không làm nổi.
Phù
Sai nói:
Chẳng những quan Thái Tể không làm nổi, dẫu
cho Thế Tử của Ta cũng không thể làm được.
Phù
Sai truyền tha Câu Tiễn không bắt về nhà đá nữa, được tùy tiện tìm chỗ ở, đợi
khi Phù Sai khỏi bệnh sẽ cho về nước. Câu Tiễn lạy tạ lui ra, từ đó về sau Câu
Tiễn tìm được chỗ ở trong nhà dân, nhưng vẫn chăm chỉ giữ việc nuôi ngựa như
trước, Phù Sai quả nhiên khỏi bệnh đúng như lời Câu Tiễn nói.
**************
PHẦN 29
Lại
nói về Phù Sai cho là Câu Tiễn trung thành với mình, nên khi đã khỏi bệnh liền
truyền bày tiệc ở trên vân đài, cho Câu Tiễn vào dự yến. Câu Tiễn giả cách
không biết, vẫn mặc áo tù mà đến. Phù Sai trông thấy truyền Câu Tiễn tắm gội và
ban cho mũ áo. Câu Tiễn hai ba lần từ tạ rồi mới dám nhận. Câu Tiễn thay áo mũ
xong lại vào lại vào sụp lạy Phù Sai.
Phù
Sai vội vàng đỡ dậy và hạ lệnh rằng:
Vua Việt là người nhân đức không nên làm
nhục lâu, ta định tha tội cho về nước nay nên tiếp đãi tử tế.
Các
Quan đại phu nước Ngô đều vái nhường Câu Tiễn mời Câu Tiễn ngồi, rồi ngồi cả
hai bên cạnh. Ngũ Viên thấy Phù Sai quên hẳn thù xưa, trong lòng căm tức không
chịu ngồi vào liền quay trở ra.
Bá
Hi nói:
Đại Vương ta lấy cái lòng một người nhân
đức. Mà tha cái tội của người nhân đức. Tôi nghe nói “đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu” ngày nay ai là nhân
thời ngồi lại, ai bất nhân thời bỏ đi. Quan tướng quốc là người cương dũng cho
nên thẹn không dám ngồi, chớ sao?
Phù
Sai cười mà nói:
Quan Thái Tể nói phải lắm.
Rượu
đã ba tuần, Phạm Lãi và Câu Tiễn đều đứng dậy dâng chén chúc thọ Phù Sai. Phù
Sai bằng lòng lắm ngày hôm ấy uống rượu thật say. Rồi sai Vương Tôn Hùng đưa
Câu Tiễn ra công quán, đợi trong ba ngày nữa sẽ đưa về nước.
Sáng
hôm sau Ngũ Viên vào tâu với Phù Sai rằng:
Hôm qua Đại Vương lấy khách lễ mà đãi kẻ thù
là nghĩa thế nào? Câu Tiễn trong bụng như hổ báo, lang sói mà mặt ngoài giả
cách cung kính. Đại Vương thấy y nói những lời xu nịnh, chẳng nghĩ đến tai họa
về sau ư? Bỏ lời trung trực mà nghe kẻ
gièm pha, nghĩ đều nhân nhỏ mà nuôi kẻ thù lớn, khác nào như buông nắm lông ở
trên lò than mà mong mỏi cháy. Ném quả trứng ở dưới cân nặng mà muốn được toàn
thời làm sao?
Phù
Sai nghe Ngũ Viên nói thời không bằng lòng nói rằng:
Ta ốm trong ba tháng, quan tướng quốc chẳng
thấy hỏi thăm được một câu, thế là quan tướng quốc bất trung, lại chẳng thấy
quan tướng quốc làm quà cho cái gì, thế là quan tướng quốc bất nhân. Làm bề tôi
mà bất trung và bất nhân thời còn dùng được việc gì nữa. Câu Tiễn bỏ nước mà
sang đây, đem của cải đến dâng nạp, đem thân làm tôi tớ đó là điều trung khi ta
có bệnh. Lại chịu nếm phân ta mà lòng không oán giận, đó là điều nhân. Nếu ta
theo ý riêng của quan tướng quốc mà giết kẻ thiện sĩ ấy thời Trời nào còn giúp
ta nữa.
Ngũ
Viên nói:
Sao Đại Vương lại nghĩ lầm như vậy? Con Hổ
thu mình lại thời tất là chực vồ con mồi. Con Cáo mà rụt cổ lại thời tất định
cắn một cú chí tử. Vua Việt lâm vào tình thế buộc mới sang tùng phục Ngô ta,
dẫu trong lòng oán hận cũng không dám để lộ ra ngoài. Đại Vương nên hiểu người
xưa thường nói dò sông dò biển dễ dò, nhưng nào ai lấy thước mà đo lòng người.
Bây giờ y cúi xuống mà nếm đống phân của Đại Vương, chắc đâu không có một ngày
kia ngẩng lên mà ăn gan ruột của Đại Vương. Vì nước Việt Trung Nguyên tìm năng
con người cũng như kinh tế rất mạnh Đại Vương không suy xét kỷ mà mắc mưu tất
có ngày bị hại.
Phù
Sai nói:
Quan tướng quốc chớ nói nữa, ý ta đã quyết
định rồi.
Ngũ
Viên biết không thể can được ấm ức mà lui ra. Đến ngày thứ ba, Phù Sai lại bày
tiệc ở ngoài Sà Môn để tiễn Câu Tiễn. Các quan đều dâng chén rượu tiễn chân.
Chỉ có Ngũ Viên không đến dự.
Phù
Sai bảo Câu Tiễn rằng:
Ta tha cho nhà Vua về nước, nhà Vua nên nhớ
ơn nước Ngô mà cống nạp cho phải lễ, chớ đem lòng thù oán.
Câu
Tiễn sụp lạy mà nói rằng:
Đại Vương thương tôi là kẻ còn non dại không
tự lượng sức mình làm những điều ngu xuẫn lại biết ăn năng, nên mới tha cho
được sống mà về nước. Tôi xin đời đời không dám quên ơn. Trời cao thăm thẳm soi
xét lòng tôi, nếu tôi phụ Ngô thời Trời sẽ giáng họa.
Phù
Sai nói:
Quân Tử không sai lời. Thôi nhà Vua lên
đường nên gắng hết lòng hàng năm cống nạp cho nước Ngô.
Câu
Tiễn sụp lạy, nước mắt đầm đìa, làm ra vẻ quyến luyến. Phù Sai thân hành vực
Câu Tiễn lên xe. Phạm Lãi cầm cương xe. Câu Tiễn Phu Nhân sụp lạy tạ ơn rồi
cùng lên xe đi về phía Nam.
Bấy
giờ Phương Nam là đời thứ 14 Hạ Hùng Vương
Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang. Phương Bắc bấy giờ là năm thứ 23 đời Chu
Kính Vương.
Câu
Tiễn về đến Chiết Giang, trông thấy phong cảnh khác xưa, thở dài mà nói rằng:
Ta vẫn tưởng phải từ biệt trăm họ Bách Việt
Trung Nguyên, bỏ thân nơi cõi khác ngờ đâu nay được trở về nước giữ lấy việc
cúng tế.
Câu
Tiễn ngoảnh lại Phu Nhân mà khóc. Các người xung quanh cũng đều cảm động mà
khóc cả. Văn Chủng đem triều thần và dân trong Kinh Đô ra đón tận ở bến Triết
Giang trong tiếng reo hò dậy đất. Câu Tiễn sai Phạm Lãi bói xem ngày nào tốt để
vào thành.
Phạm
Lãi bấm đốt ngón tay rồi nói với Câu Tiễn rằng:
Ngày mai rất tốt. Chúa Công nên đi mau cho
kịp.
Câu
Tiễn tức khắc giục ngựa trở về Kinh Đô. Muốn ghi sâu trong cái nhục ở Cối Kê.
Câu Tiễn muốn xây đắp thành Thiên Đô ở đó luôn luôn nhớ tới mối thù bằng giao
hẳn việc ấy cho Phạm Lãi lo liệu. Phạm Lãi xem thiên văn, xét địa lý, lập ra
một cái thành mới bao bọc núi Cối Kê. Phía Tây Bắc Phạm Lãi cho lập lầu Phi Dục
ở núi ngọa tang làm nơi Thiên Môn. Đông Nam lập Lâu Thạch Đậu để làm địa bộ.
Còn mặt Tây Bắc thời để không. Và nói phao lên rằng đã thần phục nước Ngô,
không dám lấp đường cống hiến, cống nạp cho nước Ngô. Nhưng kỳ thực là để tiện
đường tiến đánh quân Ngô mai sau. Khi thành đắp xong, bổng thấy trong thành mọc
lên một quả núi chu vi mấy dặm như hình con quỷ, cây cỏ mọc lên rậm rạp. Có
người trông quả núi ấy giống như là núi Đông Vũ ở xứ Lang Gia, Nơi con Thuồng
Luồng Ngư Tinh thường xất hiện không biết là vì sao lại bay đến đây được.
Phạm
Lãi nói với Câu Tiễn rằng:
Tôi đắp cái thành nầy ứng với Thiên Tượng
cho nên quả núi hình con quỷ ấy hiện ra. Đó là điềm phúc nước Việt Trung Nguyên
ta có Quỷ thần phù hộ che chở điềm báo trước Chúa Công làm nên nghiệp Bá.
Câu
Tiễn nghe xong lấy làm mừng lắm mới đặc tên núi ấy là Quái Sơn cũng gọi là Phi
Lai Sơn. Câu Tiễn sang Thiên Đô ở đấy.
Câu
Tiễn bảo Phạm Lãi rằng:
Ta thực thực thất đức, để đến nổi nước nhà
suy đốn, phải đêm thân đi hầu hạ người khác, nếu không có quan tướng quốc và
các quan đại phu, cũng như các nguyên soái trấn giữ phía nam bảo vệ nước Việt
Trung Nguyên thời nước Việt Trung nguyên là sao trụ vững phát triển hùng mạnh
như thế nầy.
Phạm
Lãi nói:
Đó là nhờ hồng phúc của Chúa Công, chứ chúng
thần có công gì. Nhưng xin Chúa Công chớ lúc nào quên cái nhục ở nhà đá thời
mới có cơ báo thù được nước Ngô.
Câu
Tiễn nói:
Xin vâng lời dạy bảo.
Lúc
bấy giờ nước Việt Trung Nguyên quốc chính giao cho Văn Chủng, quân chính giao
cho Phạm Lãi. Câu tiễn luôn tôn trọng hiền tài, kính lão, thương nghèo, trăm họ
đều bằng lòng. Câu Tiễn từ khi nếm phân, thành ra bệnh hôi miệng. Phạm Lãi biết
có một thứ rau ở một quả núi về phía Bắc thành, tên gọi là rau trấp, rau ấy ăn
được nhưng có mùi hôi nên mới sai người đi hái đem về, để cả triều cùng ăn, cho
lẫn mùi hôi nhưng có mùi hôi. Sau người ta gọi tên núi ấy là núi Trấp Sơn.
Câu
Tiễn muốn gấp báo thù, mới cố chăm chỉ suốt ngày suốt đêm, khi buồn ngủ thời
lấy cỏ lục mà đánh vào mắt, chân lạnh muốn rụt lại thời lấy nước vào. Mùa đông
thường ngồi gần nước băng, mùa hạ thường ngồi gần đống lửa, xếp củi mà nằm lên
trên, chớ không nằm gường nệm. Lại treo một quả mật ở chỗ ngồi, thỉnh thoảng
lại nếm một ít.
Câu
Tiễn đêm nào cũng khóc sụt sùi, khóc chán rồi thở dài. Lại luôn luôn nhắc hai
tiếng “ Cối kê ”. Câu Tiễn thấy sau khi đất suy bại trai trán chết vô số kể,
dân số giảm kém mới hạ lệnh cấm con trai không được lấy vợ già. Ông già không
được lấy vợ trẻ. Con gái mười bảy tuổi không lấy chồng, con trai hai mươi tuổi
không lấy vợ thời bắc tội cha mẹ, đàn bà sắp chửa đẻ đều phải trình quan. Để
quan cho thầy thuốc đến coi sóc. Sinh con trai thời thưởng cho hồ rượu và con
chó. Ai sinh con gái thời thưởng cho hồ rượu và con lợn. Ai sinh ba con thời
quan nuôi hộ hai, ai sanh hai thời quan nuôi hộ một. Hể có ai chết thời quan thân
hành đi đưa đám và thương khóc. Câu Tiễn mỗi khi đi đâu thời cũng đem đồ ăn để
ở trong xe hể gặp trẻ con thời cho ăn và hỏi tên họ.
Đến
mùa làm ruộng Câu Tiễn cũng vác cày đi cày. Phu Nhân cũng chăm việc dệt cửi,
cùng chia sự lao khổ cùng với dân. Trong bảy năm Câu Tiễn không thu thế của
dân, ăn mặc rất là tiết kiệm không mặc hai màu, khiêm tốn đối với người hiền,
cùng chịu khó với trăm họ. Thế mà chẳng tháng nào Câu Tiễn không sai sứ sang
cống hiến cho nước Ngô. Lại người vào núi hái dây cát dệt làm vải nhỏ, đem dâng
Phù Sai, nhưng chưa kịp dâng Phù Sai khen lòng trung thành của Câu Tiễn. Bằng
sai người trả lại trả lại đất phía đông Câu Dụng phía Tây Hề Lý. Phía Nam Cô
Việt. Phía Bắc Bình Quyên. Cả thảy hơn tám trăm dặm mà quân Ngô đã chiếm đóng.
Từ
khi Câu Tiễn trở về nước Việt Trung Nguyên, xây dựng Thiên Đô ở Cối Kê, ra sức
trong bảy năm cũng cố lực lượng vỗ về binh sĩ, chăm lo dân chúng có thể nói là
hùng mạnh, nhân cơ hội Ngô trả đất tiến quân đánh Ngô để rửa mối hận thù.
Đại
Phu Phùng Đồng can rằng:
Tuy nước ta phồn thịnh no đủ, nhưng thế lực
nước Ngô còn mạnh lắm chỉ cần phát hiện Chúa Công tiến quân chinh phạt Ngô. Thế
nào Ngô cũng tức giận đem quân tiến đánh trong khi thế lực của ta chưa nắm chắc
phần thắng, thời tai nạn cho nước Việt ta không sao tránh khỏi. Vả lại con Chim
Ưng muốn tấn công thời nói phải biết dấu mình không cho con mồi biết thời hiệu
quả mới đạt đến đỉnh cao. Nay quân Ngô sắp đánh Tề và Tấn. Ngô tuy nổi danh
thiên hạ, nhưng thực chỉ cốt làm tổn hại uy danh Nhà Chu. Hiện nay đối với nước
Việt Trung Nguyên ta, không gì bằng biết đợi thời cơ, âm thầm liên kết với nước
Tề, thân với nước Sở, khi thời cơ đã đến, ba nước đánh Ngô thời nhất định tiêu
diệt được Ngô.
Câu
Tiễn cho lời nói Phù Đồng là có lý, cẩn thận ẩn kín ý niệm đánh Ngô, mà tiếp
tục làm cho Ngô tin mình. Câu Tiễn sai người đem vải cát mười vạn tấm, cam mật
một trăm vò. Áo cầu lông chồn năm đôi, tre nứa mười thuyền sang dân Phù Sai để
tạ cái ơn đã trả lại đất đai. Ngũ Viên nghe nói liền cáo ốm không vào triều.
Phù Sai thấy Câu Tiễn một lòng thuần phục không những trả đất chiếm đóng cho
Câu Tiễn mà còn tin lời Bá Hi.
Một
hôm Phù Sai hỏi Bá Hi rằng:
Ngày nay trong nước thái bình ta muốn mở
thêm cung thất để lấy chỗ vui chơi, nên làm tại chỗ nào ?
Bá
Hi nói:
Gần Đô Thành ta, đài cao cảnh đẹp, còn đâu
bằng Cô Tô, nhưng cái đài của Vua trước dựng lên chưa được tráng lệ lắm. Đại
Vương nên sửa lại cái đài ấy, khiến cho cao có thể trông thấy trăm dặm, rộng có
thể dung được nghìn người. Rồi hợp những ca đồng vũ nữ ở đấy, thời thật là một sự
khoái lạc đệ nhất trần gian.
Phù
Sai cho khen phải, liền trao giải, tìm kiếm những cây gỗ quý.
Văn
Chủng nghe tin vào nói với Câu Tiễn rằng:
Thần nghe nói “ Con chim bay ở trên mây cao,
chỉ chết vì miếng ăn tốt. Con cá lặn dưới vực sâu, chỉ chết về miếng mồi thơm”
Nay Chúa Công muốn báo thù Ngô thời phải xem Ngô thích cái gì mới có thể trị
nổi.
Câu
Tiễn nói:
Dẫu tìm được điều họ thích, nhưng làm thế
nào mà trị nổi?
Văn
Chủng tâu:
Thần có nghĩ cách phá Ngô cả thảy được bảy
kế.
1-
Chịu tốn của làm cho nước Ngô bằng lòng.
2- Lấy giá đắc mua thóc làm cho Ngô thiếu lương
thực.
3- Đem mỹ nữ sang dâng để làm cho vua Ngô mê
hoặc.
4- Đem thợ khéo, gỗ tốt sang đem dâng, để Ngô
làm cung thất tốn hại tiền của.
5- Dùng kẻ mưu thần để làm cho nước loạn.
6- Làm cho vua Ngô hại trung thần rơi vào cảnh
thế cô.
7- Tích của luyện quân, đợi khi địch suy yếu.
Câu
Tiễn nói:
Quan tướng quốc nói phải lắm, nhưng nên dùng
kế nào được?
Văn
Chủng nói:
Nay Ngô sửa lại đài Cô Tô, ta nên tìm cây
lớn gỗ quý đem dâng.
Câu
Tiễn liền sai hơn ba nghìn thợ mộc vào rừng tìm gỗ, tìm hơn một năm mà chưa mà
chưa được cây nào thật tốt. Thợ mọc đều đêm lòng oán hận, đêm ngày than oán với
nhau. Một hôm đang đêm bổng cuồng phong nổi lên núi rừng rung chuyển một con
quỷ Ngư Tinh xuất hiện sau đó thời trời quang mây tạnh xuất hiện hai Thần Mộc
to hai người ôm, cao năm mươi tầm, một cây ở phía Nam núi, gọi là cây tử. Một
cây ở phía Bắc núi gọi là cây nam. Thợ mộc kinh ngạc cho người vội vàng về báo
với Câu Tiễn.
Triều
thần chúc mừng Câu Tiễn rằng:
Lòng thành Chúa Công đã cảm động đến lòng
trời, cho nên trời sanh gỗ thần để giúp Chúa Công.
Câu
Tiễn mừng lắm thân hành đến làm lễ tế trời, cho thợ mộc đốn xuống sai đêm bào
láng và dùng thuốc xanh, đỏ vẽ hình rồng rắn, sai Văn Chủng đưa sang Ngô dâng
lên cho Phù Sai. Phù Sai thấy gỗ to đẹp lạ thường, xiết bao mừng rỡ.
Ngũ
Viên can rằng:
Ngày xưa vua Kiệt làm linh đài, vua Trụ làm
lộc đài khổ dân hao của đến đổi mất nước. Câu Tiễn muốn hại ta, nên đem dâng gỗ
nầy đó.
Phù
Sai nói:
Câu Tiễn được cây gỗ quý nầy, không đễ mà
dùng, lại đem dâng ta, thế là lòng tử tế sao ta lại từ chối.
Nước
Văn Lang chia đôi Nam Bắc, Bách Việt tương tàn làm suy kiệt nước Văn Lang, Đồng
Bào khốn khổ lầm than. Bắc Văn Lang đã rơi về tay quân loạn tặc phản loạn trở
thành nước Việt Trung Nguyên. Việt Trung Nguyên không những giàu có về lúa gạo,
mà còn giàu có về mọi mặc. Thủy Sản, sơn hào, hải vị, gái đẹp vàng bạc, ngọc
ngà, châu báu chẳng thiếu chi. Là miếng mồi béo bở, không những nước Ngô, mà
còn nhiều nước Phương Bắc thời Nhà Chu lúc nào cũng thèm thuồng dòm ngó. Vì thế
Việt Trung Nguyên không lúc nào yên , trong thời các Vua Hùng đánh ra đòi lại
Bắc Văn Lang. Ngoài thời các nước Phương Bắc dòm ngó thôn tính chẳng hạn như
nước Ngô.
**************
PHẦN 30
Phù
Sai thấy gỗ quý thời mừng lắm, Ngũ Viên nói gì cũng không nghe, truyền đem hai
cây gỗ quý để sửa đài Cô Tô. Trong năm năm mới làm xong đài cao ba trăm trượng,
rộng tám mươi tư trượng, trèo lên thời trông suốt được hai trăm dặm. Nguyên
trước đó có con đường chín khúc đi thẳng lên núi, bây giờ làm rộng thêm ra.
Trăm họ phải ngày đêm phục dịch, lao lực mà chết rất nhiều.
Câu
Tiễn nghe tin báo Văn Chủng rằng:
Kế sách dâng gỗ tốt cho hắn làm cung thất,
tốn hại tiền của kế ấy đã thành rồi. Nay trên đài cao tất nhiên phải tuyển ca
nhi vũ nữ, nếu ta không tìm được người tuyệt sắc thì làm sao làm cho hắn mê
hoặc được.
Câu
Tiễn nói:
Quan tướng quốc hãy bàn mưu giúp ta.
Văn
Chủng nói:
Việc gì cũng bởi trời cả. Trời đã sanh thần
mộc gúp Chúa Công thời lo gì không có mỹ nữ tuyệt sắc. Nhưng nếu ta sục tìm
thời dân tình náo động. Thần nghĩ được một kế có thể xem mặt hết con gái trong
nước tùy ý Chúa Công kén chọn.
Văn
Chủng hiến kế rằng:
Chúa Công phái một trăm nội thị đi lẫn với
Thầy Tướng giả cách đi xem tướng số khắp trong đất nước, thấy mỹ nữ thời ghi
lấy tên và chỗ ở. Dùng cách ấy chọn thời lo gì không có người.
Câu
Tiễn theo kế ấy, mới trong nữa năm mà đã tuyển chọn được hai nghìn mĩ nữ. Câu
Tiễn sai chọn lại được hai người đẹp nhất, truyền vẽ tranh đêm dâng Phù Sai.
Hai người ấy là Tây Thi và Trịnh Đán.
Tây
Thi là con một người kiếm củi ở núi Trữ La. Trữ La có hai thôn, Đông Thôn và
Tây Thôn, dân chúng phần đông là họ Thị. Người con gái ở Thôn Tây gọi là Tây
Thi. Trịnh Đán cũng ở Tây Thôn làng giềng với Tây Thi. Nhà lại gần sông hai
người ngày nào cũng gặp nhau ra đập sợi ở bến sông phải nói là tuyệt sắc giai
nhân sắc nước hương trời, mặt hoa da phấn, đúng là trong ngọc trắng ngà, da như
tuyết, mắt như hồ thu êm dịu trong suốt, người như hoa xuân đại ngàn, lưng ong,
mông nở, ngực đầy, dáng đi uyển chuyển, đúng là hoa nhường nguyệt, chim sa cá lặng
khuynh quốc nghiêng thành, ai nhìn thấy cũng mê ngây ngất tâm hồn.
Câu
Tiễn sai Phạm Lãi đem một trăm ném vàng đón về đón hai cô gái đẹp như tiên nữ
giáng trần. Phạm Lãi vừa nhìn thấy Tây Thi, Trịnh Đán thời tâm hồn xao xuyến
càng nhìn càng thấy đẹp đúng là báu vật chốn nhân gian. Phạm Lãi cho ăn mặt đồ
the lụa, ngồi xe có màn phủ mỗi khi hai mĩ nữ bước lên xe xuống xe đều bừng lên
rực sáng cả một khung trời, tiếng đồn lan nhanh, người trong nước ai cũng muốn
xem mặt, tranh nhau đón theo dọc đường không biết bao nhiêu mà kể.
Phạm
Lãi để Tây Thi và Trịnh Đán ở hội quán rồi truyền dụ rằng:
Ai muốn xem mặt hai tuyệt đại mỹ nhân, thời
phải nộp một đồng tiền.
Chỉ
trong một lúc đồng tiền đầy mấy thùng lớn. Hai mỹ nữ đi lên lầu đứng tựa vào
bao lơn, ở dưới trông lên chẳng khác nào hai tiên nữ giáng trần đứng trên
không. Tây Thi và Trịnh Đán ở lại ngoại thành, tiền thu được không biết bao
nhiêu mà kể, đều nộp vào kho cả.
Câu
Tiễn cho hai mỹ nữ ở riêng tại Thổ Thành, rồi sai một nhạc sư già dạy cho hát
múa, khi nào thành nghề sẽ sang tiến Phù Sai.
Bấy
giờ Phương bắc là đời Chu Kính Vương. Phương Nam là thời Hùng ánh Vương, Chân
Nhân Lang. Nước Việt Trung Nguyên Việt Vương Câu Tiễn lên làm Vương đã hơn mười
năm. Trước đó một năm Phương Bắc Tề Cảnh Công mất. Con nhỏ là Trà lên Ngôi. Năm
ấy Sở Chiêu Vương cũng mất, thế tử Chương lên nối ngôi Sở còn đang cũng cố xây
dựng. Tấn lại suy yếu, Tề thời Án Anh chết. Lỗ thời Khổng Tử đi, những nước
hùng mạnh Phương bắc xa gần nước Ngô nước nào cũng suy yếu cả. Chỉ có nước Ngô
là cường thịnh nhất. Phù Sai cậy mình binh hùng tướng mạnh, có ý xâm chiếm dần
các Sơn Đông các nước trấn chư hầu Nhà Chu đều lấy làm lo sợ. Phù Sai luôn tìm
cách thôn tính lần các nước Sơn Đông nhưng chưa có cớ để tiến quân. Gặp lúc
Điệu Công nước Tề sai sứ mượn quân nước Ngô, cùng đánh Lỗ.
Phù
Sai nói:
Ta vẫn muốn dùng quân sang đánh các nước Sơn
Đông nay đã có cớ rồi.
Phù
Sai thuận cho nước Tề mượn quân. Lỗ Ai Công nghe Ngô khởi binh kinh sợ, tức
khắc tha cho Vua Châu về nước rồi sai sứ sang xin lỗi với nước Tề.
Tề
Điệu Công sai quan đại phu là Mạnh Xước sang nói lại với nước Ngô rằng:
Nước Lỗ đã phục tội rồi, không dám phiền đến
nước Ngô nữa.
Phù
Sai nổi giận, nói:
Nước Ngô ta có phải là thuộc quốc của Tề
đâu, mà Ngô ta đánh hay không đánh đều phải vâng lệnh nước Tề. Âu là thân hành
đêm quân đến nước Tề, để hỏi cái tội làm sao mỗi lúc nói một khác.
Nói
xong bằng đuổi Mạnh Xước ra. Nước Lỗ nghe tin vua Ngô giận Tề liền sai sứ đem
lễ vật sang dâng vua Ngô lại ước với vua Ngô cùng đánh nước Tề. Phù Sai vui
lòng thuận ngay.
Ngũ
Viên can:
Chớ nên. Tôi nghe nói Câu Tiễn ăn không hai
món. Cùng vui cùng khổ với trăm họ. Con người nầy chưa chết là còn lo cho nước
Ngô ta không lo coi chừng đề phòng Nước Việt là nguy cơ sắp đến nơi. Tề chẳng
qua chỉ là ghẻ lở ở ngoài da. Xin Đại Vương bỏ Tề mà kìm hảm sức mạnh nước
Việt.
Vua
Ngô Phù Sai không nghe cứ đánh Tề. Tức khắc cất quân cùng với nước Lỗ đến vây
phía nam nước Tề. Người nước Tề ai cũng kinh hoảng, và thầm oán Tề Điệu Công tự
nhiên sinh sự chọc giận nước Ngô.
Bấy
giờ Trần Khất đã chết rồi, con là Trần Hằng giữ quyền chính. Nhân dịp người
trong nước không thuận mới bảo Bão Tức rằng:
Sao nhà ngươi không làm “đại sự” đi. Ngoài
thì làm cho quân Ngô khỏi giận. Mà trong thời báo được cái thù cho gia tiên.
Bão
Tức từ chối là không làm nổi.
Trần
Hằng nói:
Ta xin giúp nhà ngươi.
Nhân
khi Điệu Công đi luyện quân Trần Hằng dâng rượu độc cho Điệu Công rồi giết đi,
cho quân binh bắt Cao Chiêu Tử và Quốc Huệ rồi sai người dâng nạp cho Phù Sai
nói với Vua Ngô Phù Sai rằng:
Chúa Công tôi đắc tội với thuộc quốc đã bị
bệnh mà chết, thế là Trời đã thay Đại Vương mà trị tội Chúa Công tôi rồi. Nếu
Đại Vương rủ lòng thương xót không phá hủy xã tắc nước tôi, thời nước tôi xin
đời đời thần phục thượng quốc.
Phù
Sai nghe xong liền rút quân về, quân nước Lỗ cũng kéo về nước.
Bấy
giờ Vua Việt Trung Nguyên là Câu Tiễn cho người luyện tập mỹ nữ học múa hát
trong ba năm đã được điêu luyện, liền cho đeo ngọc trai, ngồi xe ngọc, hương
thơm ngào ngạc, có một số thị nữ rất đẹp theo hầu, rồi sai quan tướng quốc
là Phạm Lãi đem sang nước Ngô tiến Phù
Sai. Khi Phù Sai ở nước Tề về trong niềm vui chiến thắng.
Ngũ
Viên nói:
Đại Vương chớ vội mừng.
Phù
Sai nổi giận nói:
Nhà ngươi ỷ mình có công lớn coi thường Bổn
Vương lúc nào cũng xàm tấu những lời bất trung, ngươi tưởng rằng Bổn Vương không
làm gì được nhà ngươi sao?
Ngũ
Viên trở về dinh có ý tự sát. Phù Sai nghe tin đến ngăn lại. Qua ngày hôm sau
Phù Sai đang chểnh chệ trên chiếc ngai vàng nghe triều thần chuẩn tấu. Cũng vào
thời điểm ấy Phạm Lãi xin vào yết kiến Phù Sai. Phù Sai cho vào.
Phạm
Lãi quỳ lạy mà tâu rằng:
Kẻ bề tôi hèn ở bên đông hải là Câu Tiễn,
cảm ơn Đại Vương, không thể cùng thê thiếp ở bên cạnh Đại Vương hầu hạ được,
nên bề tôi kẻ hèn cố công tìm khắp trong nước được hai người khéo nghề múa hát,
sai chúng tôi đem nạp Vương Cung, để giữ việc quét rửa.
Phạm
Lãi tâu xong liền cho người đưa kiệu vào từ ngoài sân rồng một chiếc kiệu ngọc
cùng các mỹ nữ đẹp xinh đẹp vô cùng đi hai bên kiệu ngọc từ từ đi vào hương thơm
ngào ngạc triều thần mê mẫn. Phù Sai vừa trông thấy chiếc ngọc với đàng mỹ nữ
thời đã mê rồi. Tiếng sáo du dương nổi lên tức thời trên chiếc kiệu ngọc hai
tuyệt sắc mỹ nhân bước xuống cả triều thần như sáng rực lên.
Phù
Sai vừa trông thấy Tây Thi và Trịnh Đán thời hồn xiêu phách lạc, cho là Thần
Tiên mới giáng hạ. Cả triều thần im phăng phắc quả tim như muốn nhảy ra ngoài.
Phù Sai mê mẩn không còn biết gì nữa.
Ngũ
Viên thấy thế can rằng:
Bẩm Đại Vương. Tôi nghe nói Nhà Hạ mất vì
nàng Muội Hỉ. Nhà Ân mất vì nàng Đắc Kỷ. Nhà Chu khốn đốn vì nàn Bao Tự. Mĩ Nữ
là một vật có hại cho quân Vương làm cho mất nước Chúa Công Đại Vương chớ nên
nhận.
Phù
Sai lúc nầy đã mê mẩn nghe Ngũ Viên Can nổi giận nói:
Người ta ai chẳng có lòng hiếu sắc. Câu Tiễn
tìm được mỹ nữ mà chịu đêm dâng tiến ta, điều đó chứng tỏ Câu Tiễn một lòng
trung thành với ta, quan tướng quốc chớ nghi.
Rồi
không còn nghe Ngũ Viên khuyên can. Phù Sai nhận lễ cống của Nước Việt Trung
Nguyên. Nhìn hai người mỹ nữ tuyệt sắc hương thơm ngào ngạc Phù Sai yêu cả hai.
Nhưng đẹp lộng lẫy và khéo ăn nói cũng như làm dáng nũng nịu thời Tây Thi có
phần hơn. Bỡi vậy Tây Thi được ở Đài Cô
Tô. Còn Trịnh Đán thời ở Ngô Cung.
Phù
Sai đến với Trịnh Đán thấy Trịnh Đán xinh đẹp quá Phù Sai ngây ngất cả tâm hồn
quên hết cả cung phi mỹ nữ ở với Trịnh Đán được vài hôn rồi sang Cô Tô. Phù Sai
vừa nhìn thấy Tây Thi thời hồn xiêu phách lạc mê mẩn say sưa. Phải nói Tây Thi
không những đẹp như tiên giáng trần mà đàn ca múa hát thanh thót du dương mỗi
nét rung động trên người Tây Thi như con bão cuốn hút tâm hồn Phù Sai bay tận
mây xanh.
Nụ cười vừa nở trên môi
Tưởng chừng trời đất rực ngời đầy hoa
Thân hình cá lặng chim sa
Lưng ong, ngực nở nhô cao, mông đầy
Mảnh mai yểu điệu liễu hờn
Hoa nhường nguyệt thẹn lu mờ trăng sao
Tóc nàng như vạn tần mây
Hồ thu trong suốt đẹp thay mắt nàng
Da nàng trắng ngọc sáng ngần
Tuyết không sánh nổi phải nhường màu da
Phù Sai mê mẩn, mẩm mê
Quên luôn tổ quốc, quên đi triều thần.
Tây
Thi đẹp đến nổi, đi cũng đẹp, ngồi cũng đẹp, mằm cũng đẹp, khóc cũng đẹp, đau
bụng cũng đẹp. Tây Thi khéo ăn nói, khéo nũng nịu suốt ngày làm cho Phù Sai mê
mẩn quên tổ quốc, quên triều thần, quên
luôn nàng Trịnh Đán xinh đẹp. Tây Thi đến đâu thời nghi vệ chẳng khác gì Phi
Hậu.
Trịnh
Đán ở Ngô Cung không thấy Phù Sai đến với mình vô cùng ghen tức với Tây Thi,
uất khí không nói ra được, hơn một năm thời qua đời.
Phù
Sai thương lắm, đem chôn ở núi Hoàng Mao và cho lập đền thờ cúng tế. Nói về Phù
Sai yêu Tây Thi sai Vương Tôn Hùng lập ra cung Quán Khê ở núi Linh Nham, trang
sức toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi. Ở đấy có lập ra Hưởng
Điệp Lang, trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt. Lại có giếng nước trong
gọi là giếng Ngô Vương, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt. Phù Sai đứng ở
bên cạnh lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi. Lại có động gọi là động Tây Thi. Phù Sai
cùng Tây Thi cùng ngồi ở đấy. Trên núi lại có Cầm Đài. Phù Sai Tây Thi thường
gảy đàn ở đấy. Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung
nữ chở thuyền đi hái hoa, lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành Đô, đó là
chỗ Tây Thi cùng Phù Sai đi hái sen. Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở
trong thành, từ Nam sang Bắc, rồi làm cái bườm gấm để chơi thuyền, gọi là Cẩm
Phàm Hình. Phía Nam Đô Thành có Tường Châu Uyển, để làm nơi săn bắn. Lại có Ngư
Thành để làm nơi nuôi cá. Áp Thành để nuôi vịt, Kê Bi để nuôi gà, Tửu Thành để
nấu rượu. Lại thường cùng Tây Thi nghĩ mát tại Nam Loan, hồ Hạ Loan ba mặt đều
là núi chỉ có một mặt Nam hướng về quê Tây Thi. Phù Sai đặc tên lại là Động
Đình. Mỗi lần Tây Thi nhớ quê thời đến đây cùng Phù Sai. Vì quê Tây Thi ở Việt
Trung Nguyên gần Tây Hồ Động Đình. Phù Sai từ khi có được Tây Thi, cứ ở luôn
bên Tây Thi thường ở Cô Tô, bốn mùa vui chơi rượu chè đàn địch, chẳng cần thiết
đến việc gì cả. Chỉ có quan Thái Tế là Bá Hi và Vương Tôn Hùng thường hay hầu
bên cạnh. Mỗi khi Ngũ Viên xin yết kiến, Phù sai từ chối không cho vào.
**************
PHẦN 31
Nói
về Việt Vương Câu Tiễn nghe tin Phù Sai say mê Tây Thi xây chỗ chơi hết cái nầy
tới cái kia, chiến tranh xâm lược hết hết nước nầy đến nước khá, làm cho dân
chúng Ngô than oán quân binh mỏi mệt, lại bày mưu tính kế với Văn Chủng.
Câu
Tiễn nói:
Lời Tiên Vương có ghi chép. Quốc Tổ Hùng
Vương dựng nước Bách Việt Văn Lang lấy Đạo làm kim chỉ nam đoàn kết dân chúng,
vua, tôi. Nhà Nước Văn Lang lấy dân làm gốc. Dân chúng lấy ăn làm đầu. Nay nước
Việt Trung Nguyên ta thất mùa, có cái cớ xin vua Ngô cho vay thóc mà chu cấp
cho dân. Nếu trời giúp ta thời xui khiến vua Ngô cho ta vay thóc một mũi tên
bắng trúng hai mục đích. Một là làm cho nước Ngô suy yếu lương thực, hai là làm
cho chúng ta được lòng dân chúng. Hể có dân ủng hộ thời việc gì cũng làm nên
sức mạnh nào cũng đánh bại.
Câu
Tiễn sai Văn Chủng đem nhiều lễ vật đút cho Bá Hi, để Bá Hi giúp đở yết kiến
với Phù Sai. Phù Sai cho Văn Chủng vào yết kiến ở Cô Tô đài.
Văn
Chủng sụp lạy mà tâu rằng:
Nước Việt Trung Nguyên tôi năm nay mất mùa
thê thảm, trăm họ khốn khổ. Xin Đại Vương cho vay một vạn thạch thóc ở kho Thái
Sương, để cứu cho dân khỏi đói, sang năm lúa chín lại đem trả nộp.
Phù
Sai nói:
Vua
Việt thuần phục nước Ngô ta, dân Việt đói khát, như dân Ngô đói khát, ta có
tiếc gì thóc kho mà không đem ra để cứu dân Việt.
Ngũ
Viên nghe tin sứ nước việt đến Cô Tô đài cũng theo đến vào yết kiến Phù Sai.
Thấy Phù Sai cho nước Việt vay thóc Ngũ Viên lại can rằng:
Không nên. Sự thế ngày nay Ngô thôn tính
Việt, tức Việt diệt Ngô. Tôi xem ý vua Việt sai sứ đến vay thóc, không phải
thực là vì dân đói mà vay. Chính là định làm cho nước Ngô ta hết thóc đó. Ta có
cho vay cũng chẳng them tình nhân ái, mà không cho vay cũng chưa đến nổi oán
thù, chi bằng Đại Vương từ chối đi là hơn.
Phù
Sai nói:
Câu Tiễn bị giam ở nước ta, phải đi giật lùi
mà dắt ngựa cho ta, dân chúng nước Ngô cũng như chư hầu ai cũng biết cả. Nay
được ta tha cho về, Câu Tiễn cảm ơn không giết mới còn được mạng sống mà về nước.
Nên vẫn một lòng trung thành tháng nào cũng cống hiến cho nước Ngô ta. Khi nào
lại còn dám làm phản nghịch mà lo.
Ngũ
Viên nói:
Tôi nghe nói vua Việt ngày đêm chăm chỉ,
luyện tập quân binh để định báo thù nước Ngô. Nay Đại Vương đem thóc cho vay
khác gì hổ báo mọc thêm cánh, tôi e rằng họa sắp đến nơi rồi.
Phù
Sai nói:
Câu Tiễn nguyện xin làm bề tôi ta, lại còn
thế thốt nếu ăn ở hai lòng phản lại Ngô thời trời tru đất diệt có lẽ nào phản
lại lời hứa, làm bề tôi mà dám đánh vua hay sao?
Ngũ
Viên nói:
Vua Thang đánh vua Kiệt, vua Vũ đánh vua
Trụ, không phải là bề tôi đánh vua là gì?
Bá
Hi đứng bên cạnh quát lên rằng:
Quan tướng quốc nói quá, sao lại ví Đại Vương
như vua Kiệt, vua Trụ được.
Bá
Hi lại tâu với Phù Sai rằng:
Ngày xưa Tề Hoàn Công hội chư hầu ở quỳ
khâu, có ước với các nước phải cho nhau vay thóc, là để giữ lấy nghĩa giao lân.
Huống chi Việt là một nước luôn cống hiến hàng tháng xưa nay cho Ngô ta. Sang
năm lúa chín thời Việt lại đem đủ số thóc sang nộp. Thế thì chẳng thiệt gì cho
Ngô, mà lại được ơn với Việt, việc gì mà Đại Vương không thấu hiểu mà quan tướng
quốc lại nói quá như thế.
Phù
Sai bèn truyền cho nước Việt vay một vạn thạch thóc, sang năm được mùa, phải
đêm nộp trả đủ chớ có thất tín.
Văn
Chủng sụp lạy mà tâu rằng:
Đại Vương thương nước Việt mà cho vay nước
Việt mang ơn không hết, khi nào dám thất tín nhất là lúc nào cũng nhớ đến lòng
tôi trung của mình.
Văn
Chủng lĩnh một vạn thạch thóc đem về nước Việt. Câu Tiễn mừng lắm. Triều thần
hô vạn tuế. Câu Tiễn liền đem cấp phát cho dân nghèo trong nước. Dân chúng Bắc
Việt Trung Nguyên ca tụng công đức Câu Tiễn không hết lời. Năm sau nước Việt
được mùa to.
Câu
Tiễn lại hỏi Văn Chủng rằng:
Ta không trả thóc cho Ngô thời thất tín, nếu
trả thời hại Việt mà lợi cho Ngô, biết làm sao ?
Văn
Chủng nói:
Trả thời ta phải trả, nhưng chúng ta hết sức
bí mật nên chọn những hạt thóc tốt luộc đi rồi đem trả, kẻ kia thấy thóc tốt
tức nhiên gieo trồng ấy là trúng kế của ta đó. Nước Ngô dân chúng không những
bị đói to mà ngân khố kho thóc Ngô cũng thâm hụt vô kể.
Câu
Tiễn theo kế ấy đem thóc chín trả cho Ngô không thiếu một đấu nào Phù Sai khen
rằng:
Câu Tiễn thật là người biết giữ chữ tín.
Phù
Sai lại trông thấy hạt thóc to lớn lạ thường, bèn bảo Bá Hi rằng:
Nước Việt Trung Nguyên nổi tiếng đất tốt xưa
nay nhìn hạt thóc cũng đủ biết là đất tốt như thế nào. Thảo nào các đời Tiên Đế
luôn muốn chiếm lấy đất Việt Trung Nguyên. Ta nên lấy giống tốt nầy phân phát
cho dân để lấy giống.
Năm
ấy khắp nước Ngô đều gieo thóc nước Việt. Nhưng gieo xuống chờ đợi mãi không
thấy mọc lên cây nào cả hạt thóc đã trở nên thâm đen hủy mục dân Ngô đói to.
Phù Sai cho là thổ nghi không giống nhau mới có chuyện kỳ lạ như vậy, ngoài ra
không một ai biết vì nguyên do nào. Câu Tiễn nghe nói Ngô bị đói toan đem quân
đánh Ngô.
Văn
Chủng can rằng:
Chưa đánh vội vì nước Ngô còn nhiều kẻ trung
thần nhất là Ngũ Viên là trụ cột vững mạnh của nước Ngô. Sở dĩ nước Ngô trở nên
hùng mạnh làm cho các nước khiếp sợ là nhờ có hai nhân vật kỳ tài. Một là Ngũ Viên,
hai là Tôn Vũ. Tôn Vũ đã bỏ Ngô đi từ lâu rồi. Chỉ còn Ngũ Viên nhưng hiện nay
vua Ngô với Ngũ Viên không hợp lòng nhau, có lần Ngũ Viên muốn tự tử chỉ còn
chờ Ngũ Viên bị hại là thời cơ đã đến.
Câu
Tiễn hỏi Phạm Lãi:
Chừng nào thời cơ đến?
Phạm
Lãi nói:
Cũng chẳng bao lâu nữa đâu, xin Đại Vương
gấp rút ngày đêm luyện tập quân binh chững bị cho cuộc đánh Ngô.
Câu
Tiễn nói:
Quân binh nước ta còn phải luyện tập nữa
sao?
Phạm
Lãi nói:
Việc chiến tranh cần phải có quân binh tinh
nhuệ, ngoài binh pháp trận pháp ra, quân binh tinh nhuệ cần phải có tài kiếm,
kích, đao, thương, gươm, giáo, cung tên phải thật lão luyện. Mà các tài ấy nếu
không được minh sư dạy bảo thời không sao tài giỏi được. Thần biết có người Xử
Nữ ở Nam Lâm giỏi nghề kiếm, kích, đao, thương lắm. Lại có người nước Sở tên
gọi là Trần Am Nguyên, giỏi nghề cung nỏ. Xin Đại Vương cho người đón về mà
truyền dạy cho quân binh.
Câu
Tiễn liền sai sứ đem lễ vật đi mời Xử Nữ và Trần Anh người Xử Nữ ấy không biết
tên họ là gì, nguyên vẩn ở trong rừng, chẳng học ai mà giỏi nghề kiếm, kích,
đao, thương. Sứ giả phụng mệnh đến Nam Lâm mời Xử Nữ. Xử Nữ bằng lòng đi ngay.
Nửa
đường gặp một ông cụ đầu bạc đứng trước xe mà hỏi rằng:
Nàng có phải là Xử Nữ ở Nam Lâm đó không? Kiếm
thuật của nàng thế nào mà nàng dám nhận lời của Vua Việt. Âu là ta hãy thử nhau
một phen.
Xử
Nữ nói:
Xin tùy ý ông.
Ông
lão liền bẻ bụi trúc ở trong rừng như bứt nắm cỏ khô liền đâm Xử Nữ như tia
chớp. Ngọn trúc vừa lao tới Xử Nữ còn nhanh hơn nữa bắt luôn ngọn kích rồi đâm
lại ông lão. Bổng thấy ông lão nhảy lên trên cây hóa làm con vượn trắng kêu hú
lên rồi phi thân đi mất. Sứ giả lấy làm lạ và thuật lại cho Việt Vương Câu Tiễn
nghe. Xử Nữ vào yết kiến Câu Tiễn. Câu Tiễn mời ngồi rồi hỏi nghề kiếm, kích,
đao, thương Xử Nữ.
Xứ
Nữ nói:
Nghề kiếm, kích, đao, thương trong phải định
tâm giữ vững tinh thần. Ngoài phải làm ra vẻ tầm thường trông như mềm yếu như
đàn bà vậy, nhưng thật ra dữ như con hổ nhanh như con thỏ, khiến người ta không
kịp trở tay chớp mắt hạ gục đối thủ. Ai theo được cái đạo ấy thời là một người
địch nổi trăm người. Nếu Đại Vương không tin cho quân binh thử xem.
Câu
tiễn sai một trăm dũng tấn công đâm Xử Nữ. Xử Nữ chỉ cần quơ tay lạng lách vài
cái các ngọn kích bị Xử Nữ cướp sạch ném xuống đất. Câu Tiễn Vô cùng kinh ngạc
khâm phục cho là tài giỏi, mới giao cho luyện tập binh sĩ. Xử Nữ lựa khắp quân
binh, chỉ được có ba nghìn quân theo học với Xử Nữ. Dạy hơn một năm Xử Nữ cáo
từ trở về Nam Lâm. Lần sau Câu Tiễn đến mời thời không thấy Xử Nữ đâu cả.
Lại
nói về Trần Am Nguyên là người nước Sở, vì tội giết người, phải trốn sang nước
Việt. Phạm Lãi thấy là người bắn giỏi trăm phát chẳng sai phát nào, liền nói
Câu Tiễn đón làm xạ Sư.
Câu
Tiễn hỏi Trần Am Nguyên rằng:
Chẳng hay cung nỏ từ đâu mà sinh ra?
Trần
Am Nguyên trả lời rằng:
Nỏ sinh ra bỡi cung, cung sinh ra bỡi ná, ná
sinh ra bỡi một người Hiếu Tử thời xa xưa. Nguyên thời xưa nhân loại thời còn
sơ khai thời ăn lông ở lỗ, đói thời ăn thịt giống vật. khác thời tìm uống nước
mưa, người chết thời lấy cỏ bọc lại, đêm ném ra ngoài gò cho chim thú ăn. Sau
có một người Hiếu Tử không nở để cho chim thú ăn thịt Cha Mẹ mình mới phát minh
cái ná để giữ. Ở vào thời ấy chỉ có hai Phương Nam Bắc. Nam xuất hiện Viêm Đế
Thần Nông. Bắc xuất hiện Viên Hiên, Phục Hi. Từ Ná nghiên cứu ra Cung, từ Cung
nghiên cứu ra Nỏ để dẹp loạn bốn phương.
Câu
Tiễn nghe Trần Am Nguyên nói cung, nỏ xuất sứ làu thông như thế liền giao cho
Trần Âm Nguyên luyện tập ba nghìn quân binh truyền dạy nghề bắn nỏ, bắn cung
đội quân xạ thủ thiện nghệ.
Trần
Am Nguyên dạy phép “ liên nỏ, liên cung ” bắn luôn ba mũi tên không ai tránh
kịp, trong ba tháng thời quân sĩ học được hết phép bắn cung, bắn nỏ. Trần Am
Nguyên dạy xong phép xạ tiễn lâm bệnh mà chết. Câu Tiễn làm lễ hậu tán ở núi, mới
đặc cái tên núi ấy là núi Trần Am Sơn.
Ngũ
Viên cho người dò biết Câu Tiễn ngày đêm luyện tập quân binh không ngừng nghĩ
liền vào yết kiến Phù Sai khóc mà tâu rằng:
Đại Vương cứ tin nước Việt một lòng thần
phục nước Ngô. Nay nước Việt dùng Phạm Lãi, ngày đêm luyện tập quân binh, các
nghề kiếm, nỏ, đao, thương, giáo, cung đều tài giỏi cả. Một mai nhân chuyện gì
mà sang đánh nước ta thời nước ta nguy lắm. Nếu Đại Vương không tin sao không
cho người dọ thám xét xem.
Phù
Sai liền cho người sang dọ thám nước Việt, người ấy biết hết những việc Xử Nữ và
Trần Am, về báo với Phù Sai.
Phù
Sai bảo Bá Hi rằng:
Việt đã thần phục ta rồi, sao còn luyện tập
quân binh làm gì nữa?
Bá
Hi nói:
Nước Việt đội ơn Đại Vương trả hết đất lại
cho Việt Trung Nguyên, nếu không có quân sĩ thời lấy gì mà giữ là việc thường
can chi mà Đại Vương lo ngại.
Phù
Sai luôn trong lòng thấy lo muốn khỡi binh đánh Việt.
**************
PHẦN 32
Đây
nói về nước Lỗ sắp bị nước Tề thôn tính Khổng Tử liền sai Tử Cống đi gấp sang
Ngô vào tâu với vua Ngô Phù Sai rằng:
Khi trước Ngô hợp quân Lỗ đánh Tề. Nước Tề
tuy thua nhưng vẫn căm thù lắm. Nay quân Tề tiến quân đã đóng ở Vân Thủy sắp
sang đánh Lỗ, rồi cũng sẽ đánh Ngô sao Đại Vương không đánh Tề để cứu Lỗ. Đại
Vương mà phá tan Quân Tề thu phục được nước Lỗ thời uy danh lừng lẫy hơn cả
Tấn, chắc là nước Ngô nên nghiệp Bá.
Phù
Sai nói:
Khi nước Tề đã tình nguyện xin thần phục
nước Ngô. Vì thế Ta mới rút quân về. Nhưng từ đó đến nay chẳng thấy triều cống
gì cả, ta vẫn định đêm quân hỏi tội. Nhưng nghe nói vua Việt ra sức luyện tập
quân sĩ có ý rình ta, nên ta muốn đánh Việt trước, rồi sau sẽ đánh Tề, cũng
chưa lấy gì làm muộn.
Tử
Cống nói:
Không nên. Việt yếu mà Tề mạnh. Cái lợi đánh
Việt nhỏ mà cái hại thả Tề thời to. Vả chăng sợ nước Việt yếu mà tránh đánh Tề
mạnh. Thời sao gọi là trí và dũng đều mất cả hai thời tranh thế nào được nghiệp
Bá. Nếu Đại Vương có ngại nước Việt thời tôi xin sang báo vua Việt đem quân
theo hầu Đại Vương đi đánh Tề Đại Vương nghĩ thế nào?
Phù
Sai bằng lòng mà nói rằng:
Nếu như thế thời chính hợp ý ta.
Tử
Cống cáo từ Phù Sai rồi sang yết kiến vua Việt là Câu Tiễn. Câu Tiễn nghe nói
Tử Cống sắp đến thời lấy làm kinh ngạc âu đây cũng là dịp mau cho mình vì Tử
Cống là học trò giỏi của Khổng Tử, liền thân hành ra đón ngoài ba mươi dặm, mời
vào công quán, tiếp đãi rất hậu.
Khúm
núm hỏi rằng:
Nước tôi hẻo lánh về xứ đông hải, tiên sinh
không ngại đường xa mà đến đây chẳng hay có điều chi dạy bảo?
Tử
Cống nói:
Tôi đến đây để viếng Đại Vương.
Câu
Tiễn nghe Tử Cống nói thế liền sụp lạy mà nói rằng:
Tôi nghe nói Họa với Phúc là láng giềng với
nhau. Tiên sinh đến đây viếng tôi là phúc báo cho tôi đó, xin tiên sinh dạy bảo
cho biết.
Tử
Cống nói:
Mới rồi tôi vào yết kiến vua Ngô, bảo vua
Ngô đánh Tề cứu Lỗ. Vua Ngô nghi nước Việt có âm mưu phản, vậy nên muốn đánh
Việt trước. Nếu Đại Vương không có chí báo thù mà khiến cho người ta nghi thời
vụng lắm. Nếu có chí báo thù mà khiến cho người ta biết thời thật là nguy lắm.
Câu
Tiễn ngạc nhiên quì xuống mà nói rằng:
Xin tiên sinh nghĩ cách mưu cứu cho.
Tử
Cống nói:
Vua Ngô kêu ngạo mà ưa nịnh. Bá Hi chuyên
quyền mà khéo gièm. Nay Đại Vương dùng đồ lễ hậu và lời nói ngọt, rồi xin đem
một toán quân theo Ngô đánh Tề, kẻ kia đánh mà thua thời từ đó suy yếu đi. Nếu
đánh mà được tất sinh lòng kêu ngạo, muốn làm bá chủ chư hầu, chắc phải đem
quân đánh Tấn. Như thế thời nước Việt mới có dịp mà thừa thế sang đánh Ngô phần
thắng ắt nắm chắc trong lòng tay.
Câu
Tiễn nghe xong quỳ lạy hai lạy mà nói rằng:
Tiên Sinh đến đây, thật là trời giúp cho
tôi, khác nào như tôi đã chết mà lại được sống lại.Tôi xin vâng lời tiên sinh.
Câu
Tiễn bằng đem trăm nén hoàng kim, một thanh bảo kiếm và đôi ngựa tốt đưa tặng
Tử Cống. Tử Cống khéo từ chối, trở về báo với vua Ngô rằng:
Vua Việt cảm ơn Đại Vương sinh toàn cho,
nghe nói Đại Vương có bụng nghi, lấy làm sợ hãi lắm, nay mai sắp sai sứ đến tạ.
Phù
Sai mời Tử Cống ra công quán, ở lại trong năm ngày. Quả nhiên nước Việt sai Văn
Chủng đến nước Ngô, tâu với Phù Sai rằng:
Kẻ bề tôi hèn Việt Trung Nguyên đông hải là
Câu Tiễn đội ơn Đại Vương không giết, cho được sống để giữ việc cúng tế, dẫu
chết cũng chưa đủ đền ơn. Nay nghe nói Đại Vương vì nghĩa lớn mà đánh kẻ mạnh,
cứu kẻ yếu. Vậy có sai tôi là Văn Chủng đem hai mươi chiếc tinh giáp, một cái
mâu khuất lư, và một thanh kiếm. Bộ quang của Tiên Vương để lại sang dâng Đại
Vương. Khi nào Đại Vương cất quân thời Câu Tiễn xin đem ba nghìn quân dốc lòng
dốc sức vì Đại Vương xông pha trong chốn gươm, đao, tên, giáo, dẫu chết cũng
vui lòng.
Phù
Sai nghe xong lấy làm vừa lòng mới triệu Tử Cống vào mà bảo rằng:
Câu Tiễn thật là người tín nghĩa. Hắn định
đem ba nghìn quân theo ta đánh Tề, tiên sinh nghĩ thế nào?
Tử
Cống nói:
Không nên. Ta đã dùng quân Việt mà lại cho
vua Việt đi theo thời cũng quá lắm. Đại Vương nên nhận cho quân Việt theo từ
chối không cho Vua Việt đi.
Phù
Sai nghe lời. Tử Cống cáo từ nước Ngô lại đi sang nước Tấn, vào nói với Tấn
Định Công rằng:
Tôi nghe nói. Hễ không lo xa thời tất có hại
gần. Nay Ngô sắp sửa đánh Tề. Ngô mà
đánh được Tề, tất cùng Tấn tranh hùng với nhau làm Bá Chủ, nhà vua nên luyện
tập quân sĩ để mà đợi sẳn.
Tấn
Định Công nói:
Xin vâng lời dạy.
Khi
Tử Cống trở về nước Lỗ thời quân Tề đã bị quân Ngô đánh thua rồi.
Lúc
bấy giờ Phương Nam là năm thứ 30 đời Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang. Phương Bắc
là năm thứ 36 đời Chu Kinh Vương. Vua Việt Vương Câu Tiễn sai quan đại phu là
Chư Kế Dĩnh đem ba nghìn quân giúp Ngô đánh Tề. Vua Ngô là Phù Sai thống 20 vạn
quân đi đánh Tề. Cho người lập biệt quán ở đất Câu Khúc xung quanh trồng Ngô
Đồng, mùa thu gọi là Ngô Cung cho Tây Thi ra nghĩ mát ở đấy đợi khi thắng Tề, thời Phù Sai cũng
về nghĩ ở đấy cho qua mùa hạ.
Khi
quân Ngô sắp khởi hành, Ngũ Viên lại can rằng:
Nước Việt chính là cái mối lo cho nước Ngô
ta, còn nước Tề chẳng qua chỉ là bệnh ghẻ lở bên ngoài da mà thôi. Nay Đại
Vương đem 20 vạn quân đi nghìn dặm đường, để chữa cái bệnh ghẻ lở, mà quên cái
bệnh trong ruột vua Việt sắp thôn tính nước ta, tôi e rằng chưa thắng được Tề,
mà đã phải mất nước Ngô.
Quan
Thái Tế là Bá Hi bằng trách Ngũ Viên, cải nhau với Ngũ Viên về vấn đề Việt.
Nhân đấy Bá Hi gièm pha Ngũ Viên nói:
Ngũ Viên bên ngoài có vẻ trung, nhưng thâm
tâm là con người tàn nhẫn. Con người đã chẳng đoái thương gì đến Cha và Anh thì
còn thương tiếc gì đến vua? Trước đây nhà Vua muốn đánh nước Tề, Ngũ Viên ra
sức can ngăn, kết quả là đánh thành công. Do đó sinh ra oán hận. Nếu nhà Vua
không đề phòng thời Ngũ Viên sẽ làm loạn.
Bá
Hi mưu với Phùng Đồ ra sức gièm pha Ngũ Viên lúc đầu vua Ngô không nghe, nhưng
sau đó vua Ngô thấy Ngũ Viên như cái gai trong mắt muốn nhổ đi.
Nói
về vua Ngô chuẩn bị xuất quân đánh Tề. Thời Ngũ Viên lại khuyên can nữa:
Đại Vương nhất định nuôi kẻ thù trong bụng
mà đánh kẻ thù ngoài da sao thế thời nước Ngô nguy mất.
Phù
Sai nổi giận mà nói rằng:
Ta định ngày xuất quân mà lão tặc dám đem
lời quái gở trù mạt nước Ngô cũng như ngăn trở quân ta, nghĩ có đáng tội không?
Lúc
bấy giờ Phù Sai đã có ý giết Ngũ Viên. Bá Hi mật tâu với Phù Sai rằng:
Ngũ Viên là bậc lão thần đời trước, ta không
nên giết, chi bằng Đại Vương sang ước chiến với Tề, để cho người Tề giết đi,
không phải là tốt đẹp hay sao?
Phù
Sai nói:
Quan Thái Tể nói phải lắm.
Phù
Sai liền viết một bức thư kể tội nước Tề đánh Lỗ là khinh Ngô, sai Ngũ Viên đưa
sang vua Tề. Mượn tay vua Tề giết Ngũ Viên.
Ngũ Viên biết Phù Sai muốn giết mình cũng như biết nước Ngô sắp mất về tay
nước Việt. Bằng đem người con là Ngũ Phong cùng đi. Khi đến Lâm Tri Ngũ Viên
đem bức thư của Phù Sai dâng lên Tề Giản Công. Tề Giản Công nổi giận, toan chém
Ngũ Viên.
Bảo
Tức can rằng:
Ngũ Viên là Trung Thần nước Ngô, đã nhiều
lần can ngăn vua Ngô không nên tin nước Việt. Vua ngô không những không nghe mà
còn muốn loại bỏ Ngũ Viên. Mục đích vua Ngô sai Ngũ Viên sang đây là mượn dao
giết người. Muốn mượn tay Ta giết Ngũ Viên để khỏi mang tiếng là giết Trung
Thần. Chi bằng ta tha cho về, khiến cho bọn trung, bọn nịnh công kích lẫn nhau,
tàn sát lẫn nhau mà Phù Sai phải chịu tiếng ác.
Tề
Giản Công tiếp đãi Ngũ Viên tử tế, rồi hẹn đến cuối mùa xuân thời khai chiến.
Nguyên Ngũ Viên cùng với Bảo Mục quen nhau, cho nên Bảo Tức can Tề Giản Công
không giết Ngũ Viên.
Bảo
Tức hỏi riêng Ngũ Viên về việc nước Ngô. Ngũ Viên ứa nước mắt mà không nói gì
cả, chỉ cho con là Ngũ Phong nhận làm em Bảo Tức, rồi gửi ở đấy cải tên đổi họ
thành Vương Tôn Phong không dùng họ Ngũ nữa.
Bảo
Tức thở dài mà nói rằng:
Ngũ Viên định về cố can mà chịu chết, cho nên
mới để con ở lại nước Tề đây.
Lại
nói về vua Ngô là Phù Sai hẹn ngày xuất quân, cùng quân Việt. Đi qua Cô Tô đài
ăn cơm trưa ở đấy. Ăn cơm xong thời chợp mắt ngủ đi chiêm bao thấy vào Chương
Minh cung. Khi vào đến nơi, thấy hai cái nồi đun chưa chín. Lại có hai con chó
đen, một con sủa về phía Nam, một con sủa về phía Bắc. Lại có hai cái cuốc bằng
gang, cắm trên tường. Lại thấy nước chảy cuồn cuộn vào chốn điện đường. Còn về
hậu phòng thời nghe tiếng ầm ầm chẳng ra chuông, chẳng ra trống. Trông ra phía
vườn trước, chẳng thấy cây gì khác cả, chỉ toàn là giống Ngô Đồng, khi giật
mình tỉnh dậy.
Phù
Sai trong lòng hốt hoảng mới gọi Bá Hi vào kể lại tất cả nói rằng:
Quan Thái Tế thử đoán hộ ta tốt xấu thế nào?
Bá
Hi sụp lạy mà chúc mừng rằng:
Tốt thay. Giấc mộng của Đại Vương ứng vào
việc đánh Tề nầy. Hai chữ Chương Minh. Nghĩa là phá giặc thành công tiếng tăm
lừng lẫy. Hai cái nồi đun mà chưa chín, nghĩa là khí thế Đại Vương đang hưng
thịnh. Hai con chó đen, một con sủa phía Nam. Một con sủa phái Bắc có nghĩa là
Phía Nam - Phía Bắc các nước phải thần phục nước ta. Hai cái cuốc cắm ở trên
tường nghĩa là dân thợ, dân cày chăm làm ruộng. Nước chảy cuồn cuộn và chốn
điện đường nghĩa là các nước Nam Bắc đem đồ triều cống nhiều. Nơi hậu phòng
nghe tiếng ầm ầm chẳng ra chuông chẳng ra trống nghĩa là cung nữ vui vẻ. Trông
ra phía vườn trước toàn là một giống Ngô Đồng nghĩa là đem thứ gỗ cây Ngô Đồng
ấy làm đàn cầm, đàn sắt thời tiếng kêu rất êm ái. Mộng của Đại Vương tốt không
biết dường nào mà kể.
Phù
Sai dẫu ưa lời nịnh nhưng nghe nhiều chỗ không hợp lý , bằng hỏi Vương Tôn Lạc.
Vương
Tôn Lạc nói:
Tôi dốt không biết đoán mộng, nhưng ở núi
Dương Sơn về phía Tây thành có một người dị sĩ, tên gọi Công Tôn Thánh. Người
ấy học rộng lắm nếu Đại Vương còn hồ nghi, sao không triệu đến mà bảo đoán xem.
Phù
Sai nói :
Nhà ngươi triệu đến đây cho ta.
Vương
Tôn Lạc liền đi triệu Công Tôn Thánh. Công Tôn Thánh hỏi cớ, nghe Vương Tôn Lạc
nói rõ lý do là quan Thái Tể Bá Hi đã đón mộng rồi nhưng vua Ngô chưa tin nên
triệu mình đến giải rõ cơn mộng có trùng hợp lời nói Bá Hi không. Công Tôn
Thánh phục xuống đất mà khóc.
Người
vợ đứng cạnh thấy vậy cười bảo:
Phu Quân dở hơi quá. Được vua triệu đáng lý
ra phải mừng sao lại khóc như mưa?
Công
Tôn Thánh thở dài mà nói rằng:
Thương thay việc nầy nàng không biết được
đâu, ta đã tính số ta đến ngày nay là hết. Bây giờ ta phải vĩnh biệt với nàng
cho nên ta thương khóc đó.
Vương
Tôn Lạc giục Công Tôn Thánh lên xe, cùng đến Cô Tô đài. Phù Sai triệu Công Tôn
Thánh vào, rồi nói chuyện chiêm bao biểu đoán mộng cho nghe.
Công
Tôn Thánh nói:
Tôi biết nói thời tất chết, nhưng dẫu chết
cũng phải nói giấc mộng của Đại Vương. Ứng vào đánh Tề lần nầy. Chữ “Chương” có
nghĩa là thua chạy vất vả. Chữ “Minh” nghĩa là về mơi Âm Ti. Hai cái nồi đun mà
chưa chín nghĩa là Đại Vương thua chạy “không kịp nấu ăn”. Hai con chó đen, một
con sủa về Nam, một con sủa về Bắc nghĩa là phải chạy về Âm Phương “vì âm thuộc
về sắc đen”. Hai chiếc cuốc bằng gang cắm trên tường nghĩa là quân Việt Trung
Nguyên vào cày cuốc nền xã tắc nước Ngô. Nước chảy cuồn cuộn vào chốn điện
đường nghĩa là chốn điện đường bỏ không, nước trôi sóng vỗ. Nơi hậu cung nghe
tiếng ầm ầm chẳng ra chuông chẳng ra trống nghĩa là cung phi mỹ nữ bị bắt, thở
vắng than dài. Trông ra phía sau vườn toàn là một giống Ngô nghĩa là đem gỗ cây
Ngô Đồng làm đồ tống táng. Xin Đại Vương bãi đánh Tề đi và sai Quan Thái Tể là
Bá Hi sang tạ tội với Câu Tiễn thời nước mới yên mà thân mới toàn được.
Bá
Hi đứng ở cạnh tâu với Phù Sai rằng:
Đứa thất phu ở nơi thảo dã, lại dám ăn nói
càng rỡ, chẳng giết còn để làm gì.
Công
Tôn Thánh trừng mắt mà mắng Bá Hi rằng:
Quan Thái Tể quyền cao chức trọng, lộc nước
cơm vua mà chẳng hết lòng trung thành, lại cứ giữ lối dua nịnh. Ngày kia quân
Việt diệt Ngô, Quan Thái Tể có còn giữ được cái đầu hay không?
Phù
Sai nghe hai người cải lộn nói:
Đứa thất phu không có kiến thức gì, chỉ một
mực nói càn, không giết thời lời nói nầy sẽ làm mê hoặc lòng người làm hại nước
Ngô ta.
Nói
xong truyền cho lực sĩ đem cái dùi sắt đánh Công Tôn Thánh. Công Tôn Thánh kêu
to lên rằng:
Trời ơi trời có thấu cho nổi oan tình nầy
cho tôi không? Trung mà bị tội thật là chết oan. Sau khi tôi chết. Xin chớ mai
táng quăng thây tôi ở dưới núi Dương Sơn, sau nầy còn làm vang cái bóng để báo
Đại Vương.
Phù
Sai đánh chết Công Tôn Thánh, mới sai người quăng thây dưới núi Sơn Dương mà kể
tội rằng:
Giống sài lang ăn thịt mầy, lửa đốt xương
mầy, gió bay tro mầy, hình tiêu ảnh diệt còn đâu là vang bóng để báo được ta.
Bá
Hi rót chén rượu dâng lên mà chúc mừng rằng:
Mừng thay Đại Vương đã trừ được giống yêu
quái, xin cạn một chén rượu nầy, rồi sẽ phát binh.
Trung
quân thời Phù Sai và Bá Hi. Thượng quân thời Tư Môn Sào. Hạ quân thời Tào Cô,
thống lĩnh 20 vạn quân cùng ba nghìn quân Việt. Di chuyển thẳng về phía Sơn
Đông. Phù Sai sai sứ sang hội ước với Lỗ Ai Công để hợp quân đánh Tề. Ngũ Viên
đem lời hẹn của Tề Giản Công báo với Phù Sai ở ngang đường rồi cáo ốm mà về
trước, không theo đi đánh Tề.
**************
PHẦN 33
Lại
nói về tướng nước Tề là Quốc Thư đóng quân ở bến sông vấn, nghe tin Ngô và Lỗ
hợp quân đến đánh, liền hợp các tướng lại để thượng nghị. Bổng nghe báo quan
tướng quốc là Trần Hằng sai em là Trần Nghịch đến. Quốc Thư và các tướng mời
vào.
Trần
Nghịch nói:
Quân đã kéo sang đất Doanh Bác, việc nguy
cấp đến nơi quan tướng quốc sợ các tướng không chịu cố sức, vậy sai tiểu tướng
đến đây để đốc chiến. Cứ như việc ngày nay có tiến không thoái, có chết không
sống. Trong quân chỉ có đánh trống, cấm không cho đánh chiêng.
Các
Tướng đều nói:
Chúng tôi xin liều chết để quyết chiến.
Quốc
Thư truyền lệnh cất quân đi đón đánh Ngô. Đi đến Ngải Lăng, gặp toán thượng quân
của nước Ngô là tư Mao Sào.
Quốc
Thư hỏi:
Ai dám đối địch?
Công
Tôn Huy hớn hở xin đi, rồi đem quân đi nghinh chiến. Hai bên đánh nhau hơn ba
mươi hiệp, chưa phân được thua. Quốc Thư thống lĩnh quân binh từ cánh tả xông
vào. Tiếng trống như sấm. Tư Môn Sào bị hai mũi quân Tề tấn công không thể địch
nổi phải bỏ chạy.
Quốc
Thư thắng trận, càng thêm hăng hái, truyền cho quân sĩ mỗi khi ra trận, phải
đem theo một cái thừng dài mà bảo rằng:
Tục nước Ngô đều húi tóc cả, ta lấy cái
thừng để mà xâu đầu.
Quân
Tề nhao nhao như điên cuồng cho là sắp phá được quân Ngô. Tư Môn Sào đem bại
binh về yết kiến Phù Sai. Phù Sai nổi giận toan chém Tư Môn Sào.
Tư
Môn Sào nói:
Tôi mới ra trận chưa biết hư thực thế nào,
cho nên bị thua. Nếu đánh một trận nữa mà không thắng, bấy giờ xin chịu tội
chết.
Bá
Hi cũng cố xin hộ cho. Phù sai đuổi Tư Môn Sào ra, rồi giao đạo quân binh
thượng quân cho Đại Tướng là Triển Như. Gặp có tướng Lỗ là Thúc Tôn Châu Cừu
đem quân đến giúp. Phù Sai đưa ra một thanh kiếm và một bộ áo giáp, sai làm
hướng đạo, đóng quân ở cách Ngãi Lăng năm dặm.
Quốc
Thư sai người đưa chiến thư đến. Phù Sai hẹn đến ngày hôm sau. Hôm sau Phù Sai
sai Thúc Tôn Châu Cừu bày trận thứ nhất. Triển Như bày trận thứ hai. Tào Cô bày
trận thứ ba.
Tư
Môn Sào đem ba nghìn quân Việt đi lại để dụ địch. Còn mình cùng Bá Hi thống
lĩnh đại binh đóng nơi gò cao mà tùy cơ ứng biến. Lại cho tướng nước Việt là
Chư Kế Dĩnh theo ở bên cạnh để cùng xem đánh. Quân Tề đã bày trận xong, Trần
Nghịch cùng với các tướng đều ngậm ngọc. Mà bảo cùng nhau rằng ai chết thời đêm
liệm ngay.
Công
Tôn Hạ và Công Tôn Huy bắt quân sĩ hát bài ca tống tán, và cùng thề với nhau
rằng:
Hể ai còn sống mà về thời không phải là liệt
sĩ trượng phu.
Quốc
Thư nói:
Các Tướng, Sĩ mà quyết đánh thời nhất định
phải thắng quân Ngô nhất định tan tác tơi bời.
Hai
bên bày trận xong. Tư Môn Sào ra khiêu chiến. Quốc Thư bảo Công Tôn Huy rằng:
Viên bại tướng trong tay ngươi đó, nhà ngươi
nên ra mà bắt lập công đầu hạ nhuệ khí quân Ngô xuống.
Công
Tôn Huy thúc quân binh phi ngựa lao ra múa kích đâm Tư Môn Sào. Tư Môn Sào đánh
trả hai bênh đánh nhau dữ dội. Tư Môn Sào bỏ chạy, Công Tôn Huy phi ngựa thúc
quân binh đuổi theo chém quân Việt. Thúc Tôn Châu Cừu thúc quân binh ra đón
đánh Công Tôn Huy. Tư Môn Sào thúc quân binh quay trở lại khiêu chiến. Quốc Thư
lại sai Công Tôn Hạ ra đánh. Hai bên đánh với nhau dậy trời dậy đất. Tư Môn Sào
lại bỏ chạy, Công Tôn Hạ phi ngựa thúc quân binh rượt đuổi theo chém giết. Đại
Tướng nước Ngô là Triển Như thúc quân binh chận đánh Công Tôn Hạ. Tư Môn Sào
thúc quân quay trở lại khiêu chiến. Tướng nước Tề là Cao Vô Bình và Tôn Lâu đêm
quân ra đánh. Tướng Ngô là Tào Cô một mình đánh nhau với hai tướng nước Tề mà
chẳng sợ hãi một chút nào cả. Hai bên xáp chiến, chiến trường thây phơi khắp
lối.
Thơ
rằng:
Văn hóa phương Bắc là thế đây
Tranh hùng tranh bá chẳng nương tay
Kể chi đồng loại tàn sát giết
Máu đổ đầu rơi thảm thê thay.
Lại
nói về Quốc Thư thấy quân Ngô không lui, bèn cầm dùi đánh trống để thúc đại
binh tiến vào. Phù Sai đứng trên gò cao, trông thấy quân Tề hăng hái. Quân đã
dần dần kém thế. Liền sai Bá Hi đem ba vạn quân xuống tiếp ứng.
Quốc
Thư trông thấy quân Ngô lại kéo đến, đã toan chia quân ra đối địch, bổng nghe
tiếng chiêng dạy đất. Quân Tề tưởng là quân Ngô định lui, chẳng ngờ Phù Sai
thống lĩnh 10 vạn tinh binh chia làm ba đạo quân chủ lực lấy tiếng chiêng làm
tiếng quân, theo lối tắc xông vào trận địa tấn công quân Tề như vũ bão. Làm cho
quân Tề đứt ra làm ba ngả. Bọn Triển Như và Tào Cô nghe nói Phù Sai lâm trận
càng thêm hăng hái đánh quân Tề thất điên bát đảo. Triển Như bắt sống được Công
Tôn Hạ. Tư Môn Sào đâm chết Công Tôn Huy. Phù Sai bắn trúng Tôn Lâu.
Lư
Khâu bảo Quốc Thư rằng:
Quân Tề chết gần hết rồi, ngài nên đổi y
phục trốn đi rồi sau sẽ liệu kế.
Quốc
Thư thở dài mà nói rằng:
Ta cầm gần 20 vạn quân Tề mà bị nước Ngô đánh
bại, còn mặt nũi nào mà về triều nữa.
Quốc
Thư nói xong, liền cởi bỏ áo giáp xông vào trong đám quân Ngô bị quân Ngô đâm
chết. Lư Khâu Minh núp trong đám cỏ cũng bị tướng nước Lỗ là Thúc Tôn Châu Cừu
bắt được. Phù Sai phá tan quân Tề, các tướng hiến công, chém được tướng nước Tề
là Quốc Thư và Công Tôn Huy. Bắt sống được Công Tôn Hạ và Lư Khâu Minh cũng đem
chém nốt. Chỉ có Cao Vô Bình và Trần Nghịch hai người trốn thoát mà thôi, còn
người khác hoặc bị chém hoặc bị bắt không biết bao nhiêu mà kể.
Phù
Sai hỏi Chư Kế Dĩnh rằng:
Nhà ngươi xem quân Ngô cường dũng so với quân Việt thế nào?
Chư
Kế Dĩnh sụp lạy mà tâu rằng:
Quân Ngô cường dũng khắp thiên hạ không nước
nào địch nổi, huống chi là nước Việt vốn dĩ yếu hèn xưa nay.
Phù
Sai bằng lòng với câu trả lời của Chư Kế Dĩnh. Bằng trọng thưởng cho quân Việt.
Sai Chư Kế Dĩnh về trước báo tin thắng trận cho Câu Tiễn biết. Tề Giản Công vô
cùng lo sợ cùng với Trần Hằng và Hàm Chỉ thượng nghị đầu hàn nước Ngô. Rồi sai
sứ đem thật nhiều lễ vật sang lễ lạy Phù Sai.
Phù
Sai bảo nước Tề và nước Lỗ giảng hòa giao hiếu với nhau, không được gây hấn
chiến tranh nữa. Nước Tề và nước Lỗ đều vâng mệnh cả. Phù sai rút quân về đến
Ngô Cung ở Câu Khúc và nói với Tây Thi rằng:
Ta để Mỹ Nhân ở đây là muốn cho được chóng
mặt.
Tây
Thi sụp lạy và chúc mừng bấy giờ gió thu mát mẻ Phù Sai và Tây Thi đi lên trên
đài uống rượu rất vui, đến đêm khuya xa xa có tiếng lũ trẻ hát.
Lá đồng gặp mùa lạnh
Vua Ngô tỉnh, chưa tỉnh
Lá ngô đang mùa thu
Vua Ngô sầu, lại sầu.
Phù
Sai không bằng lòng sai người bắt lũ trẻ đến mà hỏi rằng:
Ai dạy chúng bây hát câu ấy?
Lũ
trẻ nói:
Có một đứa trẻ áo đen, không biết ở đâu đến
dạy bày hát như thế.
Phù
Sai nổi giận nói rằng:
Ta đây tự trời sinh ra, có Thần Thánh ủng
hộ, khi nào lại sầu.
Phù
Sai toan giết lũ trẻ. Tây Thi cố xin mãi mới thôi.
Bá
Hi tâu rằng:
Xuân đến thời muôn vật vui, thu đến thời
muôn vật sầu, đó là Đạo Trời. Đại Vương lúc vui lúc sầu cũng là chuyện thường
tình hợp lẽ trời còn lo gì nữa.
Phù
Sai ở Ngô Cung ba ngày rồi mới về kinh thành. Các quan triều thần đều vào chúc
mừng. Ngũ Viên cũng đến không nói gì cả.
Phù
Sai trách Ngũ Viên rằng:
Quan tướng quốc can ta không nên đánh Tề,
nay ta thắng được Tề trở về, quan tướng quốc không có công gì cả, tưởng cũng
nên hổ thẹn.
Ngũ
Viện giận lắm, vùng vằng buông thanh kiếm xuống mà tâu rằng:
Trời định làm mất nước cho điều mừng nhỏ,
rồi mới giáng họa to lớn. Việc thắng Tề chẳng qua là điều mừng nhỏ tôi e rằng
sắp có điều họa lớn đến nơi.
Phù
Sai tức giận nói rằng:
Đã lâu không gặp quan tướng quốc, tai ta
được im lắng dễ chịu, nay lại đến kể lễ rầy rà hay sao?
Phù
Sai nói xong bưng tai nhắm mắt ngồi trên điện một lúc bổng trừng mắt mà quát to
lên rằng:
Quái Lạ.
Các
quan tâu rằng:
Đại Vương thấy gì?
Phù
Sai nói:
Ta trông thấy bốn người tựa lưng nhau rồi
mỗi người chạy về một phía. Lại thấy dưới điện có hai người đứng đối nhau.
Người ngoảnh mặt phía Bắc giết người ngoảnh mặt phía Nam. Các ngươi có trông
thấy như thế không?
Các
quan đều nói:
Chúng thần không nhìn thấy gì cả.
Ngũ
Viên tâu rằng:
Bốn người chạy về bốn phía, nghĩa là bốn
phương ly tán. Người ngoảnh mặt phía Bắc giết người ngoảnh mặt phía Nam nghĩa
là kẻ dưới làm hại người trên, bề tôi giết vua. Nếu Đại Vương không biết tu
tỉnh thời tất có ngày hại thân mất nước.
Phù
Sai nổi giận nói:
Tướng quốc điềm gở như vậy ta không muốn
nghe.
Bá
Hi nói:
Bốn phương ly tán, nghĩa là bốn phương chạy
đến phục dịch trước sân Ngô. Nước Ngô ta làm Bá Chủ, sắp có cơ thay Nhà Chu, ấy
cũng là cái điềm Bề Tôi phạm đến vua đó.
Phù
Sai nói:
Quan Thái Tể nói một lời làm cho lòng ta mở
rộng. Tướng quốc thời già nua lắm rồi, chẳng nói được câu nào như thế cả.
Mấy
hôm sau vua Việt là Câu Tiễn đem bề tôi nước Việt thân hành đến nước Ngô mục
đích là nắm rõ tình nước Ngô cũng như đường tiến quân đánh Ngô đội lớp là thân
hành đến nước Ngô chúc mừng Phù Sai thắng trận. Đối với các quan nước vua Việt
đều có quà biếu cả.
Bá
Hi nói:
Thế là bốn phương phải phục dịch trước sân
Ngô đó.
Phù
Sai bày tiệc ở trên vân đài. Câu Tiễn ngồi hầu. Các quan đại phu đều đứng hầu
bên cạnh Phù Sai nói:
Vua không quên người bề tôi có công, Cha
không quên người con có công. Nay quan Thái Tể là Bá Hi vì ta luyện tập binh sĩ
có công ta dự định thưởng cho làm thượng khanh. Vua Việt thờ ta như Cha, một
lòng hiếu thuận. Ta cũng định trả hết đất đã chiếm đóng trước đây lại còn phong
thêm cho đất biên giới mở rộng đất đai Nước Việt Trung Nguyên để trả công lao
giúp ta, các quan đại phu nghĩ thế nào?
Các
quan đại phu đều nói:
Đại Vương thưởng công cho kẻ khó nhọc đó là
quyền của Bá Vương.
Ngũ
Viên sụp lạy xuống đất khóc mà tâu rằng:
Than ôi, thương thay. Người trung bịt miệng,
lũ nịnh nâng tay trái làm cho phải, gian tưởng là ngay. Có một ngày kia diệt
nước Ngô nầy miếu tổ tông tàn phá cung điện đầy gai.
Phù
Sai nghe xong nổi trận lôi đình:
Lão tặc gian trá, làm tai làm quái, chỉ muốn
chuyên quyền để hại nước Ta. Ta nghĩ đến Tiên Vương, mà không nở giết, cho về
mà tự xử lấy, đừng trông thấy mặt ta nữa.
Ngũ
Viên nói:
Lão thần nầy nếu bất trung bất tín, thời đã
chẳng được làm tôi cho Tiên Vương. Nay khác nào như Long Bàng gặp vua Kiệt. Tỉ
Can gặp vua Trụ. Tôi dẫu bị giết nhưng Đại Vương cũng khó mà toàn. Tôi xin từ
đây vĩnh biệt không trông thấy mặt Đại Vương nữa.
Ngũ
Viên nói xong tức khắc lui ra trở về nhà. Phù Sai vẫn chưa nguội cơn giận.
Bá
Hi nói:
Tôi nghe nói khi trước Ngũ Viên sang sứ nước
Tề, có đem con gửi cho họ Bảo, thế là có ý muốn phản lại Ngô, Đại Vương nên xét
kĩ.
Phù
Sai nghe xong cả giận nói:
Quả thật Ngũ Viên lừa dối quả nhân, muốn làm
phản.
Bèn
sai người tới nhà Ngũ Viên trao cho Ngũ Viên thanh kiếm Chúc Lâu để tự sát Ngũ
Viên cầm lấy thanh kiếm cười lớn một hồi rồi than rằng:
Đại Vương muốn giết ta đây.
Ngũ
Viên nói xong liền chạy ra đứng trước giữa sân mà kêu to lên rằng:
Trời ơi là trời.Ta làm cho nhà ngươi nên
nghiệp Bá, ta lại lập nhà ngươi lên ngôi, lúc đầu nhà ngươi muốn chia một nửa
nước Ngô cho ta, nhưng ta không nhận. Bây giờ ngươi lại nghe lời gièm pha mà
giết ta. Ta vì mầy mà phá Sở, ta vì mầy mà đánh Việt, khiến cho uy danh lừng
lẫy khắp chư hầu. Than ôi, con người cô độc một mình không thể nào đứng được.
Nay mầy không nghe theo lời can gián của Ta. Lại bắt ta chết. Ta chết ngày nay,
thời mai đến lượt ngươi. Quân Việt Trung Nguyên đến đào bới xã tắc nước Ngô
ngươi đó.
Ngũ
Viên bảo với người nhà rằng:
Khi ta chết rồi, các ngươi phải khoắc mắt ta
mà treo ở cửa Đông để ta được xem quân Việt kéo vào.
Nói
xong Ngũ Viên tự đâm cổ mà chết.
Nội
thị đêm thanh kiếm về tâu với Phù Sai và thuật lại những lời nói của Ngũ Viên.
Ngũ Viên trong khi gần chết thời Phù Sai thân hành đến xem thi thể rồi nói
rằng:
Ngũ Viên mầy đã chết rồi thời có biết gì
nữa.
Phù
Sai lại truyền cắt thủ cấp Ngũ Viên đem treo ở cửa Bàn Môn, còn thi thể thời bỏ
vào cái bao da ngựa, sai người quăng xuống khúc sông tiền đường mà bảo rằng:
Nhật nguyệt cháy xương mầy, thuồng luồng ăn
thịt mầy. Hình thể mầy tiêu diệt. Phỏng có còn gì không.
Thi
thể Ngũ Viên theo dòng sông trôi đi sóng đánh dạt vào bờ. Dân ở đấy sợ hãi bảo
nhau vớt lên, đêm chôn ở núi Ngô Sơn. Phù Sai giết Ngũ Viên rồi, mới phong cho
Bá Hi làm tướng quốc. Câu Tiễn trở về Việt Trung Nguyên, càng dốc lòng nghĩ mưu
đánh Ngô.
**************
PHẦN 34
Nói
về Câu Tiễn dốc lòng mưu nghĩ đánh Ngô. Thế mà Phù Sai chẳng để ý gì đến. Càng
ngày càng kêu căng phóng túng. Ăn chơi trác tán mấy mấy vạn dân đi đắp Hàn
Thành đào một cái kênh ở phía Đông Nam xuyên sang Tây Bắc, khiến nước Sông
Trường Giang, chảy vào Sông Nghị, rồi thông sang Sông Tề. Thế Tử Hữu biết ý Phù
Sai muốn hội thông Nam Bắc Sơn Đông gắng liền với Việt Trung Nguyên trở thành
thời đại mới Trung Quốc. Thời đại thay thế Nhà Chu. Thế Tử Hửu muốn can ngăn
nhưng lại sợ Phù Sai giận, mới nghĩ ra một kế để làm cho Phù Sai tĩnh ngộ.
Một
hôm đang buổi sáng sớm, Thế Tử Hữu đeo cung mang tên ở hậu cung viên đi về, áo
giày ước sạch cả. Phù Sai thấy lạ, liền hỏi.
Thế
Tử Hữu nói:
Con ra chơi sau hậu viên, nghe tiếng con Ve
kêu ở trên cây chạy lại gần xem. Thấy con Ve tưởng mình yên ổn khoe khoang cái
giọng ngân nga của mình. Không ngờ có con Bọ Ngựa giơ hai càng rình bắc con Ve
để ăn thịt. Con Bọ Ngựa chỉ biết miếng mồi là con Ve nên không chú ý gì cả.
Không ngờ có con chim Sẻ vàng bay lượn ở gần đấy định mổ con Bọ Ngựa. Con chim
Sẻ chỉ biết chăm chăm vào con Bọ Ngựa. Nào ngờ có Con đứng ở đấy giương cung
định bắn con chim Sẻ chỉ lo chăm chú con chim bước tới bước lui không ngờ sụp
xuông cái hố ướt cả áo giày đến nổi làm trò cười cho Phụ Thân.
Phù
Sai nói:
Mầy chỉ ham cái lợi trước mắt, mà không nghĩ
đến cái hại sau lưng thiên hạ còn ai ngu như thế nữa.
Thế
Tử Hữu nói:
Thế mà thiên hạ còn có người ngu hơn con.
Nước Lỗ là dòng dõi Chu Công. Lại nhờ công dạy bảo của Khổng Tử. Không xâm phạm
gì đến lân quốc thế mà nước Tề tự nhiên đem quân đánh Lỗ. Tề tưởng lấy được Lỗ, chẳng ngờ có
Ngô đem quân đi nghìn dặm để đánh Tề. Ngô đánh Tề tưởng lấy được Tề. Chẳng ngờ
nước Việt Trung Nguyên đem quân quyết tử vượt qua tam giang, thông ngũ hồ để
diệt nước Ngô.
Phù
Sai nghe xong nổi giận nói:
Mầy học đâu ra cái giọng lưỡi của Ngũ Viên,
ta nghe chán tai lắm, bây giờ mầy lại bắt chước, để làm ngăn trở công việc của
ta hay sao?
Thế
Tử Hữu sợ hãi lui ra. Phù Sai giao cho Thế Tử Hữu cùng Vương Tử Địa và Vương
Tôn Dị Dung giữ nước, còn mình thời đem quân sang hội với Lỗ Ai Công ở đất Thái
Cao, với Vệ Xuất Công ở đất Phát Dương, rồi ước với các Chư Hầu đại hội ở Hoàng
Trì, muốn cùng với nước Tấn tranh nhau Bá nghiệp.
Câu
Tiễn nghe tin Phù sai đêm quân đi vắng, tinh binh nước Ngô đều điều động đi
theo mới cùng Phạm Lãi thương nghị.
Câu
Tiễn hỏi Phạm Lãi:
Đánh Ngô được chưa?
Phạm
Lãi nói:
Được rồi đấy.
Việt
Vương Câu Tiễn bèn đem hai nghìn người bị đày, cùng bốn vạn quân binh thường
được huấn luyện, sáu nghìn kẻ sĩ, sáu nghìn quân tử. Hơn một nghìn tướng lĩnh
chỉ huy theo đường thủy vượt qua Sông Trường Giang bất ngờ tiến đánh quân Ngô.
Tiền đội là Trù Vô Dư thần tốc đánh thọc sâu vào nước Ngô chiếm lĩnh nhiều quận
huyện. Quân sĩ và dân chúng Ngô đã quá mệt mõi vì chiến tranh. Vì sự ăn chơi
trác tán của Phù Sai. Những người mạnh
khỏe hăng hái phần lớn đã chết ở trận chiến với Tề, phần thời theo Phù Sai họp
chư hầu ở Hoàng Trì. Quân Ngô trấn giữ nơi biên giới cũng như các quận huyện bị
quân Việt Trung Nguyên đánh bại nhanh
chóng.
Trù
Vô Dư di chuyển quân binh thần tốc tiến đánh thẳng vào Kinh Đô nước Ngô. Vương
Tôn Dị Dung đêm quân ra chống cự, đánh
nhau được mấy hiệp. Cùng lúc ấy Vương Tử Địa đem quân ra xáp chiến. Trù
Vô Dư đánh không lại ngã ngựa bị bắt. Ngày hôm sau Việt Vương Câu Tiễn thống
lĩnh đại quân đến. Thế Tử Hữu định giữ thế thủ.
Vương
Tôn Dị Dung nói:
Quân Việt vẫn có lòng sợ nước Ngô Ta. Vả lại
từ xa kéo đến đây tức nhiên mệt nhọc. Ta thắng lần nữa, thời họ phải chạy. Nếu
không thắng bấy giờ giữ thế thủ cũng chưa lấy gì làm muộn.
Thế
Tử Hữu nghe lời. Liền sai Dị Dung ra đánh, Hữu đêm quân theo sau. Câu Tiễn thân
hành đốc quân binh đánh nhau với Ngô. Phạm Lãi và Thế Dung ở hai bên tả hửu
cũng thúc quân reo hò mà tiến. Khí thế mạnh như chẻ tre. Lúc bấy giờ ở nước
Ngô, quân binh tinh dũng đều theo Phù Sai. Ở trong nước toàn là quân sĩ chưa
luyện tập. Trong khi quân nước Việt Trung Nguyên toàn là quân tinh dũng đã
luyện hơn mười năm. Nhất là đội quân tinh nhuệ đạt đến cảnh giới xuất quỉ nhập
thần đã được Xử Nữ cũng như Trần Am Nguyên đã luyện tập. Lại thêm Phạm Lãi và
Thế Dung đều là tướng lão luyện nhiều năm ở chiến trường thời quân Ngô làm sao
địch lại nổi quân Ngô thua to.
Vương
Tôn Dị Dung bị Thế Dung tướng Việt giết chết. Thế Tử Hữu bị vây hãm trong vòng
vây quân Việt bắt được thời nhục liền tự tử mà chết.
Quân
Việt kéo thẳng đến dưới chân thành. Vương Tôn Địa đóng chặt cửa thành lại rồi
cố giữ thế thủ và sai người đi cáo gấp với Phù Sai. Câu Tiễn cho thủy quân đóng
ở Thái Hồ. Lục quân đóng ở Tư Môn. Câu Tiễn sai Phạm Lãi đốt đài Cô Tô lửa cháy
hơn một tháng chưa tắt, bao nhiêu chuyến thuyền của Ngô đều chiếm lấy đem về Thái Hồ cả, quân Ngô thủ thành không
dám ra đánh.
Lại
nói về chuyện Phù Sai cùng với Lỗ Ai Công và Vệ Xuất Công cùng đến Hoàng Trì,
sai người mời Tấn Định Công. Tấn Định Công sợ phải đến hội. Phù Sai sai Vương
Tôn Lạc cùng với quan thương khanh nước Tấn là Triệu Ưởng bàn việc để tên trước
sau ở trong tờ tái thư.
Triệu
Ưởng nói:
Nước Tấn đã mấy đời nay làm Minh Chủ còn
phải hỏi gì nữa.
Vương
Tôn Lạc nói:
Tổ nước Tấn là Thúc Ngu, là em của vua Thành
Vương. Tổ nước Ngô là Thái Hà là bá Tổ vua Vũ Vương. Tôn ti cách nhau mấy
tần. Huống chi Tấn dẫu làm Minh Chủ. Mà
khi hội ở nước Tấn, ở quắc đều phải đứng dưới Sở. Nay Đại Vương muốn đứng trên
Ngô hay sao?
Hai
bên tranh nhau, mấy ngày chưa ngã ngũ đi đến dứt khoát. Bỗng có sứ giả của
Vương Tử Địa sai đến, mật báo việc quân Việt đánh Ngô, giết Thế Tử Hữu, nay
đang vây thành sự thế rất nguy cấp. Phù Sai kinh sợ. Bá Hi rút gươm chém chết
sứ giả.
Bá
Hi nói:
Việc nầy hư thật chưa rõ, nếu để sứ giả tiết
lộ ra thời Tề và Tấn tất thừa cơ sinh sự, Đại Vương tài nào mà về yên được.
Phù
Sai nói:
Quan tướng quốc nói phải lắm, nhưng Ngô và
Tấn còn đang luận chưa xong, nay lại có tin nầy, vậy ta nên bỏ về ngay, hay ở
lại dự hội mà chịu cho Tấn làm trưởng?
Vương
Tôn Lạc nói:
Hai đường đều không được cả. Ta bỏ không dự
hội mà về ngay thời biết ta có sự nguy cấp. Nếu dự hội mà chịu cho Tấn làm
trưởng rồi thời ta làm gì cũng tất phải vâng mệnh nước Tấn. Vậy thời ta quyết
tranh cho ngã ngũ mới khỏi lo ngại.
Phù
Sai hỏi:
Muốn tranh cho được thời phải làm thế nào?
Vương
Tôn Lạc mật tâu rằng:
Nay việc đã nguy cấp lắm, xin Đại Vương nổi
hiệu trống mà khiêu chiến để làm cho người nước Tấn phải sợ.
Phù
Sai cho là phải, đêm hôm ấy điều động quân binh kéo sang chỗ quân Tấn đóng cách
nhau chỉ độ một dặm, rồi bày trận ở đấy. Vua Ngô tự tay cầm dùi đánh trống, hơn
một vạn cái trống trong quân đều đánh theo. Tiếng chiêng trống nổi lên inh ỏi.
Quân Tấn sợ hãi không biết vì cớ gì, mới sai quan đại phu là Đổng Cát sang hỏi.
Phù
Sai rằng:
Ta phụng mệnh thiên tử Nhà Chu làm Minh Chủ
các nước, nay vua Tấn trái mệnh tranh Trưởng, để đến nổi dùng dằng mãi không
xong. Ta sợ sứ giả đi lại thêm phiền vậy phải thân hành đến đây mà thượng nghị.
Nước Tấn theo không theo ngày hôm nay phải quyết.
Đổng
Cát về báo với Định Tấn Công. Bấy giờ Lỗ Ai Công và Vệ Xuất Công cũng ngồi ở
đấy.
Đổng
Cát nói riêng với Triệu Ưởng rằng:
Tôi xem ý vua Ngô, ngoài miệng dẫu nói cứng,
nhưng nét mặt buồn rầu, tất là trong bụng như có điều gì lo nghĩ lắm. Hay là
quân Việt Trung Nguyên đã sang đánh Ngô rồi nếu quả vậy ta không chịu cho hắn
đứng tên trước, thời tất hắn liều mà đánh ta, nhưng ta cũng không nên chịu
nhường suông, phải bắt hắn bỏ Vương Hiệu đi mới được.
Triệu
Ưởng nghe xong bằng tâu với Tấn Định Công. Định Công lại sai Đổng Cát sang nói
Phù Sai rằng:
Đại Vương phụng mệnh thiên tử Nhà Chu hội
chư hầu Chúa Công tôi không dám trái, nhưng nước Ngô nguyên là Tước Bá mà lại
hiệu Xưng Ngô Vương thời đối với Thiên Tử Nhà Chu ra sao? Đại Vương nên bỏ
Vương Hiệu Ngô Vương đi mà xưng là Ngô Công thời Chúa Công tôi xin vâng mệnh.
Phù
sai cho là lời nói ấy là phải, liền tự xưng là Ngô Công rồi ra tiếp kiến các
vua chư hầu. Ngô Công thề trước, thứ đến nước Tấn, đến Lỗ và Vệ. Phù Sai rút
quân theo đường thủy về nước Ngô. Đi đến nửa đường được luôn mấy tin nước nhà
lâm nguy cấp báo. Quân sĩ nghe nói ai cũng sợ hãi vả lại đi đường xa mỏi mệt,
nên chẳng ai nghĩ gì đến sự giao chiến.
Khi
đại quân Ngô kéo về gần đến Ngô Thành thời bị quân Việt Trung Nguyên chận đánh.
Phù Sai thấy quân Việt Trung Nguyên anh dũng lạ thường, kiếm, cung, đao,
thương, nỏ, giáo kỳ lạ đánh quân Ngô như đàng hổ xông vào đàn dê mà xơi, quân
Ngô lớp lớp ngã gục. Phù Sai nhìn thấy kinh hoàng khiếp vía 20 vạn quân Ngô chủ
lục tinh nhuệ, bị quân Việt Trung Nguyên đánh tơi bời. Quân Ngô thua to.
Phù
sai sợ hãi lắm nói với Bá Hi rằng:
Quan tướng quốc nói vua Việt không bao giờ
làm phản cho nên ta nghe mà tha cho về nước. Sự thể ngày nay như thế nầy quan
tướng quốc phải sang xin cầu hóa với Việt. Nếu không thời thanh kiếm ta đưa cho
Ngũ Viên ngày trước ta lại đưa cho quan tướng quốc đó.
Bá
Hi liền sang quân Việt, sụp lạy Câu Tiễn xin tha tội cho nước Ngô còn mang theo
lễ tạ tội cầu giảng hòa với nước Việt. Nước Ngô lại xin theo nước Việt.
Phạm
Lãi nói với Câu Tiễn rằng:
Nước Ngô, ta cũng chưa nên diệt, ta hãy cho
hòa để đền ơn cho Bá Hi. Từ đây Ngô không còn cường thịnh được nữa đâu, vì Việt
Ta luôn theo dõi Ngô.
Câu
Tiễn cho nước Ngô giảng hòa, rồi rút quân về nước, vào năm đó năm thứ 38 đời
Chu Kính Vương phương Bắc, phương nam năm thứ 32 đời Hùng Ánh Vương, Chân Nhân
Lang đời thứ 14 Hạ Hùng Vương. Lúc bấy giờ phương Bắc phía bên kia sông Trường
Giang thấy nước Ngô đã bị nước Việt Trung Nguyên kìm hảm không còn lo sợ Ngô
thôn tính nữa. Bằng thôn tính lẫn nhau nước nầy đánh nước kia. Nước kia đánh
nước nọ tranh bá tranh quyền chém giết lẫn nhau thảm khốc.
**************
PHẦN 35
Nói
về Việt Vương Câu Tiễn cho Ngô giảng hòa được bốn năm. Bấy giờ là năm 42 đời
Chu Kính Vương phương Bắc năm thứ 36 đời Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang phương
Nam. Vua Việt Vương Câu Tiễn cho người dọ thám biết Phù Sai từ khi thua quân
Việt. Thời không còn chí khí tranh Bá tranh Hùng. Mà suốt ngày chỉ mê tửu sắc,
chẳng thiết gì đến triều chính, vả lại mấy năm mất mùa luôn, lòng dân than oán.
Câu Tiễn liền thống lĩnh đại quân đánh Ngô. Quân Việt Trung Nguyên chuẩn bị
xuất quân lên đường. Câu Tiễn nhìn thấy ở trên đường cái có một con ễnh ương to
lớn dị thường trợn mắt phình bụng, ra ý tức giận, Câu Tiễn đang ngồi xe đứng
dậy để to lòng kính.
Những
người theo hầu đều hỏi:
Đại Vương thấy gì mà kính vậy ?
Câu
Tiễn nói:
Ta trông thấy con ễnh ương tức giận , khác
nào như quân sĩ đang hăng say chiến đấu xáp chiến đánh giặc, cho nên ta kính.
Quân
sĩ đều bảo nhau rằng:
Con ễnh ương tức giận mà Đại Vương còn có
lòng kính. Chúng ta cố công luyện tập trong mười năm lại không bằng con ễnh
ương hay sao?
Bấy
giờ quân sĩ đều khuyên bảo nhau liều chết để đánh giặc. Người trong nước tiễn
con em đi đánh Ngô khóc mà từ giả rằng :
Chuyến nầy đi mà không diệt được Ngô thời
chớ có mà trở về nước mà gặp nhau nữa.
Câu
Tiễn lại hạ lệnh cho quân binh rằng:
Ai mà hai Cha con cùng ở lính thời cho Cha
về. Hai anh em cùng ở lính thời cho Anh về. Có Cha Mẹ mà không anh em thời cho
về để nuôi Cha Mẹ. Có tật bệnh không thể đi lính được thời quan địa phương chu
cấp thuốc men lương thực cho.
Quân
sĩ cũng như dân chúng cảm ơn ấy đều reo hò mừng rỡ khi sắp tiến quân qua đất
Ngô, những kẻ vị phạm quân lệnh đều bị chém đầu để giữ nghiêm quân pháp. Nên
quân binh tuân theo hiệu lệnh răm rắp sức mạnh quân binh tăng lên đáng kể.
Vua
Ngô là Phù Sai nghe tin quân Việt tiến đánh, cũng đem hết quân binh ra đối
địch. Quân Việt đóng đồn ở bờ sông phía Nam Dương Tử Trường Giang. Quân Ngô
đóng đồn ở bờ sông phía Bắc Dương Tử Trường Giang. Câu Tiễn chia ra làm hai đạo
quân. Phạm Lãi coi hửu quân, Văn Chủng coi tả quân. Đại quân Câu Tiễn đi giữa
có sáu nghìn quân thiện chiến bật nhất của quân Việt Trung Nguyên. Hai bên định
sáng hôm sau thời cùng nhau giao chiến ở giữ dòng sông.
Quân
ngô là quân giỏi về thủy chiến đã từng đánh bại quân Việt ở Sông Lạc Phù Sai
rất tin tưởng ở trận quyết sanh quyết tử nầy.
Tối
hôm trước. Câu Tiễn truyền cho trung quân im lặng theo dòng sông cánh tả cách
năm dặm ẩn không cho quân Ngô biết đến nửa đêm thời nổi hiệu trống tiến đánh
quân Ngô. Lại truyền cho hửu quân im lặng theo dòng sông cánh hửu cách xa mười
dặm ẩn không cho quân Ngô biết. Đợi khi tả quân trống hiệu nổi lên, thời tiếng quân
nổi trống mà đánh, đều dùng trống lớn để vang động dậy trời.
Nói
về quân Ngô nửa đêm bổng nghe tiếng trống dậy trời, biết là quân Việt đến đánh
lén, vội vàng đốt đuốc soi lên chưa trông rõ gì cả. Lại nghe có tiếng xa nổi
lên quân Việt hai mặt vây kín quân Ngô. Phù Sai kinh sợ vội vàng chia quân ra
để đối địch. Chẳng ngờ Câu Tiễn đem sáu nghìn quân, nhân khi trời tối lẻn vào
trong trận quân Ngô. Bấy giờ trời vừa hừng sáng, quân Ngô trông thấy trước sau,
tả, hữu, trong trận địa chỗ nào cũng có quân Việt tấn công dữ dội, đao, kiếm,
cung, nỏ bắn đâu ngã gục đó, chém đâu ngã gục đó.
Quân
Ngô biết mình không thể địch nổi vội vàng bỏ thuyền lên bờ trốn chạy. Câu Tiễn
thúc quân binh đuổi theo đến đất Lập Trạch thời đuổi kịp chém quân Ngô xối xả,
quân Ngô chống trả hai bên đánh nhau long trời lở đất. Quân việt đao thương
cung nỏ đều tài giỏi, lại thêm khí thế quyết tử hào hùng quân Việt ào ào xông
tới chém thôi là chém quân bỏ xác khắp nơi thây phơi như rạ, quân Ngô chiến ba
trận đều thua cả ba.
Tướng
nước Ngô là bọn Tào Cô và Tư Môn Sào đều chết tại trận cả. Phù Sai thua chạy về
Đô Thành đóng chặt cửa thành lại. Câu Tiễn bọc lên Hoàng Sơn đánh bọc xuống lại
cho quân đắp cái thành ở ngoài cửa Tư Môn gọi là Việt Thành. Câu Tiễn ở đó chỉ
huy quân binh Việt bao vây khuấy động binh đao làm cho nước Ngô phải khốn khổ.
Câu
Tiễn vây Ngô lâu ngày làm cho dân Ngô cũng như binh sĩ khốn quẫn quá. Bá Hi cáo
ốm liên miên không dám ra đối đầu với quân Việt. Phù Sai bằng sai Vương Tôn Lạc
sang gặp Việt Vương Câu Tiễn Vương.
Tôn
Lạc lột trần vai áo kéo lết đầu gối cả vài trăm mét mà tâu với Câu Tiên rằng:
Kẻ bề tôi cô độc là Phù Sai xin bày gan
ruột, ngày trước thần đã đắc tội ở Cối Kê. Đã được Đại Vương tha cho từ đó
không dám trái mệnh, nên được Đại Vương
cho giảng hòa. Nay Đại Vương lại cất quân sang đánh cô thần, nếu Đại Vương muốn
giết cô thần, cô thần cũng xin vâng theo không dám trái ý. Nhưng cô thần cũng
muốn Đại Vương tha tội cho cô thần, như việc trước đây ở Cối Kê kẻ bề tôi cô
độc một lòng tùng phục, không dám nghĩ tới hai lòng mong được Đại Vương nghĩ
đến chút tình ngày trước mà tha tội cho.
Câu
Tiễn có ý không nở toan cho hòa. Phạm Lãi can rằng:
Đại Vương ngày đêm lo nghĩ mưu tính kế ra
công khó nhọc trong suốt 20 năm thôn tính nước Ngô nay sắp thành công mà lại bỏ
đi nghĩa làm sao? Việc xảy ra ở Cối Kê trước kia đó là do trời đem nước Việt
Trung Nguyên giao cho nước Ngô, nhưng nước Ngô lấy. Nay trời lại đem nước Ngô
trao cho nước Việt. Nước Việt có nên làm trái mệnh trời không? Vả chăng nhà Vua
ra triều sớm, bãi triều muộn chẳng phải là để trả thù nước Ngô đó sao? Trời đã
cho mà không lấy, trái lại cơ trời từ phước chuyển thành họa. Nhà Vua không nên
quên bài học mà vua Ngô đã làm tha cho vua Việt mà ngày nay phải trả giá bằng sinh
mạng cũng như sự mất nước.
Câu
Tiễn nghe xong tỉnh Ngộ bèn không cho hòa. Sứ giả nước Ngô đi lại bảy lượt nói
to nhỏ với vua Việt cũng như Văn Chủng và Phạm Lãi những lời tha thiết nhất,
nhưng Phạm Lãi, Văn Chủng nhất định không nghe.
Câu
Tiễn có lúc mềm lòng nói:
Ta không nở từ chối lòng sứ giả.
Phạm
Lãi, Văn Chủng nói:
Việc nầy để thần giải quyết.
Phạm
Lãi, Văn Chủng nói với sứ giả:
Nhà vua đã giao quyền quyết định cho Lãi và
Chủng nầy, sứ giả nên về ngay nếu không sẽ trị tội.
Bằng
sai đánh trống thúc cho quân binh tiến lên công phá thành. Quân nước Ngô tuy
mất đi sức mạnh vốn có. Nhưng muốn phá thành tiến quân vào thời không phải dễ
vì kinh thành nước Ngô vô cùng kiên cố không dễ gì một mươi ngày mà phá được
đâu. Nếu phá được thời cũng phải trả cái giá tổn thất không nhỏ. Đêm hôm ấy mọi
người bổng thấy trên cửa thành có treo một cái đầu Ngũ Viên, mặt to bằng bánh
xe, mắt sáng như tia chớp râu và tóc dựng đứng cả lên, sáng rực trong mười dặm.
Tướng sĩ nước Việt ai nấy cũng sợ hãi, phải tạm lui quân. Đến nửa đêm hôm ấy,
bổng mưa to gió lớn, sấm ran chớp giật cát bay đá chạy ù ù quân Việt không chết
thời cũng bị thương quả là không sao tưởng tượng được, dây cáp đức hết thuyền
chao đảo không kết với nhau được.
Phạm
Lãi, Văn Chủng vô cùng lo sợ. Trời đang mưa to gió lớn Phạm Lãi, Văn Chủng nhìn
lên cửa thành mà sụp lạy một lúc tạ tội với Ngũ Viên. Tức thời mưa to gió lớn
im lặng trở lại. Phạm Lãi, Văn Chủng đang ngồi ngủ gà ngủ gật đợi trời sáng.
Bổng chiêm bao thấy Ngũ Viên ngồi trên một cái xe trắng con ngựa trắng đi đến áo
mão chỉnh tề cũng như lúc còn sống bảo với Phạm Lãi và Văn Chủng rằng: Ta biết
nổi giông nổi gió làm khiếp đảm quân Việt là phạm ý Trời. Nhưng lòng trung của
ta chưa tuyệt, nên mới nổi cơn mưa gió để làm quân Việt phải lui. Nhưng ý trời
đã định. Trời cho nước Việt chiếm lấy nước Ngô quỉ thần nào ai dám cải. Bọn
ngươi muốn chiếm thành thời phải theo cửa Đông ta sẽ mở đường cho.
Hai
người cùng chiêm bao giống nhau, liền nói với Câu Tiễn. Câu Tiễn sai người khai
một cái kênh từ phía Nam qua phía Đông, khi khai đến cửa Xa Môn và cửa Tương
Môn, thời bổng thấy nước ở Thái Hồ từ cửa Tư Môn chảy vào, làn sóng dữ dội, làm
thành một cái vũng rộng lớn, có nhiều giống cá chuyên cá phù theo nước kéo vào.
Phạm
Lãi nói:
Ấy là Ngũ Viên mở đường cho quân ta đi.
Phạm
Lãi nói xong liền thúc quân binh tiến vào cửa Đông quả nhiên quân Ngô chống cự
không lại cửa Đông bị phá vỡ, quân Việt Tràn vào thành như nước lỡ.
Phù
Sai nghe tin quân Việt Trung Nguyên đã phá được cửa Đông tràn vào thành như
nước lỡ thời kinh hồn bạc vía. Bá Hi đã xin ra hàng. Phù Sai cùng với Vương Tôn
Lạc và ba con chạy sang Dương Sơn, đi suốt ngày suốt đêm, bụng đói miệng khác,
hai mắt hoa mờ. Các quan chạy theo bứt được mấy trái Ngô sống, đem bóc ra rồi
dâng cho Phù Sai, Phù Sai ăn xong ngồi xuống đất, lấy tay bụm nước ở dưới mương
mà uống lại hỏi:
Mới rồi ta ăn thứ gì?
Các
quan nói:
Đó là Ngô sống.
Phù
Sai nói:
Công Tôn Thánh ngày trước bảo ta, rồi phải
chạy vất vả và không kịp nấu cơm ăn, chính là thế nầy.
Vương
Tôn Lạc nói:
Ăn no rồi thời hãy đi, phía trước có một cái
hang sâu, ta hãy tránh vào đấy.
Phù
Sai nói:
Mộng đón đã đúng thời sắp đến ngày chết, ta
còn tránh làm gì nữa.
Nói
xong cứ ngồi ở Dương Sơn, bảo Vương Tôn Lạc rằng:
Ngày trước ta giết Công Tôn Thánh, ném ở
trên đỉnh núi nầy, chẳng hay còn có thiêng hay không?
Vương
Tôn Lạc nói:
Đại Vương thử gọi xem.
Phù
Sai gọi to lên rằng:
Công Tôn Thánh.
Ba
lần gọi đều nghe tiếng dội theo. Phù Sai kinh sợ, lại trốn sang ở Vu Tọa. Câu
Tiễn lại đem một nghìn quân kỵ mã đuổi theo vây kín mấy dặm. Phù Sai viết một
bức thư, buộc đầu mũi tên, bắn vào trong đám quân Việt. Quân Việt nhặt được đệ
trình Phạm Lãi và Văn chủng cùng mở ra xem thư rằng: Tôi nghe giống thỏ đã hết
thời chó săn tất bị mỗ địch quốc đã diệt nưu thần tất không còn. Sao quan đại
phu không giữ lại cho nước Ngô một sợi tơ mành, để làm chỗ thoát cho mình về
sau.
Văn
Chủng cũng viết một bức thư buộc vào mũi tên bắn vào rừng rậm mà đáp rằng: Nước
Ngô có sáu điều lỗi to. Giết chết trung thần Ngũ Viên. Giết chết Công Tôn
Thánh. Bá Hi là người xàm nịnh lại tin dùng. Đó là ba điều lỗi to. Tề, Tấn vô
tội thế mà Ngô cứ đêm quân quấy nhiễu. Việt và Ngô là hai nước láng giềng Nam
Bắc thế mà Ngô hết xâm lược lần nầy đến lần khác hết đời con, đời cha, đến đời
ông. Nước Việt giết tiên vương nước Ngô mà nước Ngô lại không biết báo thù dung
túng kẻ địch để hậu quả gây nên tai họa. Có sáu điều lỗi to ấy, thời tài nào mà
không mất nước. Ngày xưa trời đem nước Việt cho Ngô. Ngô không chịu nhận: Nay
trời lại đem nước Ngô cho Việt, có Việt lại dám trái mệnh trời.
Phù
Sai cho người tìm lấy mũi tên do Văn Chủng bắn đi ngồi đọc, đọc đến điều lỗi
thứ sáu thời ứa nước mắt mà nói rằng:
Ta quên kẻ thù của Tiên Vương mà không giết
Câu Tiễn như thế là bất hiếu. Vì thế mà trời không giúp nước Ngô ta nữa.
Vương
Tôn lạc nói:
Tôi xin sang yết kiến vua Việt một lần nữa
và cố xin vua Việc tha.
Phù
Sai nói:
Ta cũng không phục lại nước Ngô như cũ nữa.
Nếu nước Việt cho nước Ngô làm một nước phụ thuộc nhỏ để đời thần phục nước
Việt thời ta cũng đành lòng.
Vương
Tôn Lạc sang đến quân Việt Phạm, Lãi Văn
Chủng không tiếp. Câu Tiễn trông thấy sứ giả nước Ngô khóc lóc thảm thiết mà
về, liền động lòng thương sai người bảo Phù Sai đến nói rằng:
Ta nghĩ cái tình nhà vua ngày trước, xin để
nhà vua ở đất Dũng Đông cấp cho năm trăm nóc nhà để trọn đời nhà vua sanh sống
nơi đó.
Phù
Sai sụt sùi mà đáp rằng:
Đại Vương thương tình mà xá cho Ngô, thời
Ngô cũng là một nước Đại Vương cai quản thần phục Việt đó. Nếu phá xã tắc bỏ
Tôn Miếu thời còn gì nước Ngô. Thời tôi nhận lấy năm trăm nóc nhà để mà làm gì.
Nay tôi đã già, không thể theo sau hàng bách tính chỉ còn chết mà thôi.
Câu
Tiễn nghe vô cùng tức giận nói:
Nhà ngươi còn muốn nuôi mộng đời sau tiêu
diệt ta sao?
Câu
Tiễn bảo Phạm Lãi, Văn Chủng rằng:
Sao hai ngươi không giết Phù Sai đi cho rồi?
Phạm
Lãi, Văn Chủng nói:
Phù Sai cũng là một ông vua, chúng tôi không
dám giết xin Đại Vương phụng mệnh trời mà làm chớ nên chậm trể.
Câu
Tiễn liền chống thanh kiếm “bộ quang” ở trước quân. Sai bảo Phù Sai rằng:
Ở đời chẳng có ông vua nào sống mãi, rốt
cuộc cũng chết là xong, việc gì phải đợi quân ta kề gươm lên cổ?
Phù
Sai thở dài mấy tiếng. Ngoảnh lại trông bốn phía khóc than mà rằng:
Ta giết trung thần là Ngũ Viên và Công Tôn
Thánh, nay ta phải tự tử cũng là muộn lắm rồi.
Phù
Sai bảo các người xung quanh rằng:
Giả chết mà linh hồn không chết, thời ta còn
mặt mũi nào mà trông thấy Ngũ Viên và Công Tôn Thánh ở dưới suối vàng. Âu là
các nhà ngươi lấy ba thước lụa phủ mặt cho ta.
Nói
xong rút gươm đâm cổ mà chết. Vương Tôn Lạc cởi áo để phủ lên mặt Phù Sai rồi
cũng lấy dây lưng thắt cổ chết ở bên cạnh.
Thơ
rằng:
Vua Ngô chăm chuốt cuộc hề
Khói mây rồi cũng trở về khói mây
Bể trần xấu xé lẫn nhau
Chết đi luân chuyển tránh đâu đọa đày
Luật trời há dễ làm càn
Huyền cơ xây chuyển tan tành bụi tro.
Câu
Tiễn truyền chôn cất theo lễ vua chư hầu, chôn
Phù Sai ở Dương Sơn, lại sai quân sĩ mỗi người một sọt đất mà đắp vào,
chỉ trong chốc lác thành ra nấm mồ to lớn. Còn ba con Phù Sai thời đem đày đi ở
núi Long Vi.
Câu
Tiễn vào thành Cô Tô ngự ở cung vua Ngô. Triều thần vào lạy mừng. Quan Thái Tể
là Bá Hi cũng ở trong hàng ấy cậy có ơn giúp đở Câu Tiễn ngày trước, ra vẻ đắc
ý.
Câu
Tiễn bảo Bá Hi rằng:
Nhà ngươi là quan Thái Tể nước Ngô, ta đây
không dám xem ngươi là bề tôi. Vua nhà ngươi ở Dương Sơn, sao nhà ngươi không
đi theo?
Bá
Hi thẹn mà lui ra. Câu Tiễn sai bắt Bá Hi mà giết đi. Nhổ cỏ diệt tận gốc Câu
Tiễn lại cho quân binh giết cả gia tộc Bá Hi.
Câu
Tiễn nói:
Thế là ta trả thù cho Ngũ Viên.
Thơ
rằng:
Ai thâm hiểm cho bằng Câu Tiễn
Giết Bá Hi vì sợ Bá Hi
Rắn độc mà ở kề bên
Có ngày nó cắn nát tan cuộc đời
Nên nói dối an lòng Ngô chúng
Trả hận thù tướng quốc Ngũ Viên
Lương tâm gian trá vô biên
Tránh đâu cho khỏi đảo điên cơ đồ
Đêm đất Việt dâng về phương Bắc
Mua công danh cấu kết ngoại ban
Làm cho nước Việt nát tan
Văn Lang đất Bắc hết mong trở về.
**************
PHẦN 36
Lại
nói về Câu Tiễn muốn theo chí khí mộng Bá Vương của Phù Sai, kết hợp Nam Bắc
các nước xa gần Dương Tử Trường Giang xây dựng lên một Sơn Đông Trung Quốc hùng
mạnh mà Phù Sai làm chưa được. Câu Tiễn phủ dụ quân Ngô theo quân Việt vì thế
quân Việt vô cùng hùng mạnh đủ sức để làm Bá Chủ.
Câu
Tiễn càng ngày càng Độc Tài Độc Trị không nghe lời ai nữa bằng đem quân về hướng
Bắc, vượt qua Sông Bắc Giang, Sông Hoài ở vào thời đó có sông Dương Tử Trường
Giang, và Sông Bắc Giang. Cùng các trấn chư hầu Nhà Chu như Tề, Tấn, Tống, Lỗ.
Đông Bắc phương Đông hợp ở từ Châu. Các nước biết Câu Tiễn có ý liên minh thống
nhất nhiều nước Nam bắc Dương Tử Trường Giang thành một liên minh Trung Quốc.
Chữ
Trung có nghĩa là Trung Nguyên. Liên kết Nam - Bắc nhiều nước thành Trung Quốc.
Các
nước Tề, Tấn, Tống, Lỗ nhất trí tán thành nhưng phải quy thuận Nhà Chu. Việt
Vương Câu tiễn liền nghe theo. Sai người đem lễ vật vào cống Thiên Tử Nhà Chu
nói rõ nguyện vọng của mình. Lúc bấy giờ Chu Kính Vương đã mất. Thái Tử Nhân
lên ngôi, tức là Chu Nguyên Vương. Triều thần Nhà Chu nghe xong còn gì vui
sướng hơn nhất là Chu Nguyên Vương. Việt Trung Nguyên không cần chiếm lấy mà tự
có không đổ một giọt máu. Chu Nguyên Vương bằng đem Cổn Niệm, Khê Bích, Đồng Cung,
Hồ Thỉ ban cho Câu Tiễn. Phong cho làm mệnh làm Bá Chủ Sơn Đông, Trung Quốc.
Câu Tiễn cuối đầu vân mệnh. Chu Nguyên Vương Nhà Chu sai sứ thần ban nhiều rượu
thịt đến Câu tiễn các trấn chư hầu Nhà Chu đến chúc mừng.
Lúc
bấy giờ Việt Vương Câu Tiễn là Bá Vương Sơn Đông Trung Quốc có quyền quyết định
hòa giải các nước. Câu Tiễn đưa quân vượt qua phía nam sông Hoài cắt đất nước
Sở mà trả lại phong cho nước Lỗ đất đai một trăm dặm ở phía đông Sông Tứ. Những
đất đai mà nước Ngô chiếm được nước Tống trả lại cho nước Tống. Các trấn chư
hầu Nhà Chu đều kính phục. Câu Tiễn về đến nước Ngô. Bằng bày tiệc ở trên Vân
đài nước Ngô cùng với các quan tướng uống rượu chúc mừng Việt Vương Câu tiễn
lên ngôi Bá Vương Trung Quốc, đứng đầu mấy trăm thuộc quốc. Phải nói Trung Quốc
ra đời hùng mạnh nhất thời bấy giờ.
Đây
nói về Phạm Lãi là dân Bách Việt Văn Lang. Thấy Việt Vương Câu Tiễn đem dâng
nước Việt Trung Nguyên cho Nhà Chu thời vô cùng bất mãn khuyên can mấy lần. Câu
Tiễn không nghe cứ làm theo ý mình nhưng trong lòng có ý dè chừng Phạm Lãi.
Phạm
Lãi có ý bỏ Việt Vương Câu Tiễn khi còn ở Từ Châu nhưng còn chần chừ chưa dứt
khoát. Khi về nước Ngô Phạm Lãi mới dứt khoát biết nếu mình ở lại thời cái chết
không biết lúc nào bằng bỏ đi trong lúc Việt Vương Câu Tiễn còn khoe khoang với
bá quan văn võ Nhà Chu Phong cho Bá Vương chủ quản Trung Quốc.
Phạm
Lãi ngay trong hôm ấy đi một chiếc thuyền nhỏ ra Tề Nữ Môn qua Tam Giang vào
Ngũ Hồ. Ngày hôm sau Câu Tiễn sai người triệu Phạm Lãi vào thời Phạm Lãi đã đi
rồi.
Câu
Tiễn biến sắc bảo Văn Chủng cho quân binh đuổi theo bắt Phạm Lãi lại cho ta.
Văn
Chủng nói:
Mưu trí của Phạm Lãi, quỉ thần cũng khó mà
lường được, ta không nên đuổi theo.
Nói
về Phạm Lãi vượt qua Tam Giang, Ngũ Hồ nhìn lên trời mà than rằng: Ta có tội
với Bách Việt Văn Lang. Anh Hùng Lạc Đạo tôn thờ tên ác Bá kẻ bán nước phản bội
Ông Cha.
Phạm
Lãi nghĩ mình đã theo Việt Vương Câu Tiển không thể vào Văn Lang để sống được.
Bằng cải tên đổi họ thành Chi Di Tử Bì đi theo đường biển sang qua Tề tìm được
chỗ sanh sống không trở về nước Việt Trung Nguyên Nữa.
Phạm
Lãi trước khi bỏ Việt Vương Câu Tiễn mà đi có một bức thư cho quan đại phu Văn
Chủng. Một hôm Văn Chủng vừa ra khỏi cung thời có một người đưa cho Văn Chủng
một bức thư nội dung như sau: Chim đã hết thời cung nỏ phải cất. Thỏ khôn đã
chết thời chó săn lại bị nấu. Vua Việt là người cổ dài, miệng dều hâu. Con
người chỉ vì danh lợi cá nhân. Đem đất Bắc Văn Lang cầu vinh mà dâng cho phương
Bắc Nhà Chu. Một con Cáo Già đã lộ cái đuôi chồn lòng dạ hiểm sâu nói một đường
làm một nẻo, giả nhân giả nghĩa lừa gạt tấm lòng tốt của người dân Bách Việt
khi hiểu ra thời mọi việc đã rồi. Nếu Ngài không bỏ đi tất có tai họa vì Ngài
rất yêu Bắc Văn Lang.
Văn
Chủng xem xong thời người đưa thư cũng đi đâu mất. Văn Chủng nhận được thư của
Phạm Lãi trong lòng lấy làm căm hận cho cuộc đời mình anh hùng lạc đạo tôn thờ
một kẻ bán nước. Văn Chủng bật khóc từ đó cáo bệnh không vào chầu nữa. Có người
gièm nói Văn Chủng làm phản.
Việt
Vương Câu Tiễn đến nhà đưa kiếm cho Văn Chủng rồi nói:
Nhà ngươi thường dạy quả nhân bảy thuật để
đánh Ngô. Quả nhân mới dùng có ba mà nước Ngô đã thua. Còn bốn thuật nữa ở nhà
ngươi. Nhà ngươi hãy giúp ta mà diệt Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang, thời công
ngươi mới to tác hơn nữa.
Văn
Chủng nhìn lên trời nói lớn:
Con đã biết sai xin Bách Việt Văn Lang tha
tội cho con.
Văn
Chủng nói xong liền tự sát. Câu Tiễn ở nước Ngô không bao lâu cho người ở lại
cai quản, còn mình thời rút đại quân về Việt. Đem cả Tây Thi về. Câu Tiễn Phu
Nhân mật sai người bắt Tây Thi đem ra bờ sông, buộc viên đá lớn vào người rồi
đẩy xống sông mà bảo rằng:
Nó là vật vong quốc, còn để làm gì.
Phạm
Lãi nghe Tây Thi bị Tiễn Phu Nhân dìm chết dưới sông thời than rằng:
Nước nhà còn mất bỡi cơ trời
Sao cứ Tây Thi đổ lỗi hoài
Tây Thi nếu làm Ngô mất nước
Thời nay Việt mất bỡi tay ai.
Nói
về Phạm lãi ở đất Tề một thời gian cải dạng thương buôn trở về Việt Trung
Nguyên lén dẫn cả gia quyến đi theo qua sống bên nước Tề ra sức khổ thân cày
ruộng không bao lâu thời làm giàu nổi tiếng cả vùng. Sau lại dời đến đất Đào để
ở. Tiện đường buôn bán đổi chác gia súc, lúa gạo làm giàu hơn nữa. Tự gọi mình
là Đào Chu Công.
Câu
Tiễn từ Ngô trở về Việt Trung Nguyên sai sứ đàm phám với nhà nước Văn Lang. Nội
dung đàm phám như sau:
Kính
Gởi
Quốc
Vương Thiên Tử Bệ Hạ.
Bá
Vương Trung Quốc.
Là
Câu Tiễn. Không thể không nghe Thiên Tử Nhà Chu. Thương lượng cùng Quốc Vương
Thiên Tử Bệ Hạ.
Việc
Bắc - Nam, chinh chiến hơn mấy mươi năm. Hai bên Nam - Bắc đều không có lợi.
Không những làm cho bá tánh muôn dân trăm họ khốn khổ điêu linh. Mà còn gây ra
cảnh tan thương chết chóc dân chúng lầm than bỡi binh đao máu lửa. Đất nước hai
bên càng ngày càng suy kiệt dân không đủ no nói gì đến mặt ấm than oán khắp
nơi. Chi bằng hai bên đi đến hiệp ước giao hòa. Đất ai nấy ở nước giếng không
phạm nước ao, nước ao không phạm nước giếng. Hai bên Nam - Bắc cùng có lợi.
Nhất là dân chúng sống trong cảnh thái bình, bù đắp lại hơn mấy mươi năm chiến
tranh.
Bá
Vương Câu Tiễn tôi thiết nghĩ.
Chấm
dứt chiến tranh cũng là cái đức của bậc Quân Vương làm cho dân chúng được hưởng
thái bình.
Vì
thế. Bá Vương Câu Tiễn tôi tuy là Bá Chủ Trung Quốc, cũng như thế lực Nhà Chu,
phải nói là vô cùng hùng mạnh. Nếu Bá
Vương Câu Tiễn tôi là tay háo chiến, thời nhất định diễn ra một cuộc tranh hùng
Nam - Bắc chưa biết ai là kẻ thắng người thua. Nhưng chiến tranh xảy ra trên
đất nước Văn Lang, là một điều thiệt hại lớn cho đất nước Văn Lang. Quốc Vương
Thiên Tử bệ hạ nên suy nghĩ đưa quyết định giao chiến hay nghị hòa là tùy ở
Quôc Vương bệ Hạ.
Bá
Vương Trung Quốc Câu Tiễn kính thư.
Hùng
Ánh Vương, Chân Nhân Lang xem xong chỉ biết thở dài. Rồi cho người đọc lớn cho
triều Thần nghe. Triều thần không ai là không ngán ngẩm cho cuộc chinh chiến
Nam Bắc dai dẳng kéo dài mãi thiệt hại không những về kinh tế, mà còn thiệt hại
nhân mạng vô số kể.
Hùng
Ánh Vương hỏi triều thần:
Ai có ý kiến gì không?
Lạc
Hầu Vương nói:
Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Chỉ một nước Việt
Trung Nguyên mà hơn mấy mươi năm chúng ta không đánh thắng nổi. Nay Việt Vương
Câu Tiễn đem Việt Trung Nguyên dâng cho Nhà Chu tội bán nước đã rành. Nhưng
chúng ta không thể làm gì khác hơn vì thế lực Câu Tiễn quá lớn. Không những Bá
Chủ Trung Quốc, mà còn có cả thế lực Nhà Chu. Nếu chúng ta không đi đến nghị
hòa, thời nước Văn Lang trở thành bãi chiến trường thiệt hại vô cùng to lớn.
Nhưng nếu chúng ta chấp thuận lời yêu cầu của Câu Tiễn. Thời coi như Bắc Văn
Lang không còn của chúng ta nữa mà là của Phương Bắc trở thành Trung Nguyên
Trung Quốc.
Hầu
Tôn Vương nói:
Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Vận hóa Cơ Trời
không thể cải được. Theo như lời Quốc Tổ truyền dạy nước Văn Lang mất dần về
phương Bắc hiện nay đã xảy ra. Việc nầy chỉ có Quốc Vương Bệ Hạ mới quyết định
được. Các thần chỉ biết nghe theo và làm theo.
Hùng
Ánh Vương viết một bức thư nghị hòa phân chia Nam - Bắc không ai xâm phạm đến
ai nữa. Việt Vương Câu Tiễn không còn lo chiến tranh nữa. Cao ngạo tàn độc.
Trung thần can ngăn đều bị giết sạch ăn chơi trác tán còn hơn cả Vua Ngô.
Câu
Tiễn làm vua được 27 năm thời chết, tức là năm thứ 8 đời cuối Chu Nguyên Vương.
Chu Trinh Định lên ngôi thay thế 469 trước công nguyên. Ở phương Nam Văn Lang
là năm thứ 37 Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang. Sau khi Việt Vương Câu Tiễn qua
đời, con cái Việt Vương Câu Tiễn tranh giành quyền lực cấu xé lẫn nhau. Nước
Trung Nguyên dần dần dấy loạn Bách Việt nổi lên lật đổ triều đại Việt Vương Câu
Tiễn với cái tội. Việt Vương Câu tiễn bán đứng Việt Trung Nguyên cho Nhà Chu. Sự
tan rã nhà nước Việt Trung Nguyên bắc đầu từ 468 đến 425 trước công nguyên.
Khi
ấy Trung Quốc tan rã mạnh nước nào xưng hùng xưng bá nước nấy. Những nước có
thế lực hùng mạnh tranh nhau càng quyết liệt hơn. Như Tần - Sở - Tề - Ngụy -
Triệu - Yên - Hàn. Nước Việt Trung Nguyên hỗn loạn tan rã là cơ hội cho Sở -
Triệu - Ngụy thôn tính nước Việt Trung Nguyên chia nước Nước Việt Trung Nguyên
làm ba Đông - Tây - Nam sau nầy luôn là bãi chiến trường của nhiều nước phương
Bắc tranh giành với nhau thôn tính chiếm lấy Việt Trung Nguyên.
**************
VĂN LANG CHIẾN SỰ 3
ĐẾN ĐÂY ĐÃ HẾT.
COMMENTS