QUỐC BẢO CHÂN KINH VĂN LANG CHIẾN SỰ 1 THIÊN ẤN THIÊN BÚT GÒ HỘI ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI 2005 Đi...
QUỐC BẢO CHÂN KINH
VĂN LANG
CHIẾN
SỰ
1
THIÊN ẤN THIÊN BÚT
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI
2005
Đinh Hùng Chung
QUYỂN 1
PHẦN 1
Có sinh có tử luật xưa nay
Tổ Tiên Tạo Hóa đã an bày
Hết mưa tới nắng đời là thế
Hết thịnh rồi suy vốn xưa nay
Cách đây năm nghìn năm
Hùng
Vương Quốc Tổ là con của Kinh Dương Vương. Mở rộng đất đai vào Nam. Khai lâp ra
nước Văn Lang, cùng văn hóa Cội Nguồn Tiên Rồng, ra đời Hiến Pháp nước Văn
Lang, nền Quốc Đạo Tiên Rồng dân tộc. Mở ra thời đại mới, thời đại văn minh
tinh thần lẩn vật chất. Có một không hai ở giai đoạn nhân loại con người thời
kỳ ấy.
Vua
Hùng lên ngôi Quốc Vương Hoàng Đế năm 25 tuổi, ở ngôi Quốc Vương 79 năm thọ 104
tuổi. Truyền ngôi cho con cả là Hùng Qúi Lân 2880 trước Công Nguyên, ở ngôi
Quốc Đạo 3 năm thời về Trời. Rồi cứ thế lần lược con, cháu các Vua Hùng kế vị
Quốc Vương trị vì Thiên hạ. Nối nhau được 23 đời. Đời Hùng Vương thứ 23 không
có con trai. Hùng Dịch Lang đành phải lập cháu. Con của Hùng Cừ dòng thứ. Là
Hùng Vân Lang lên ngôi Quốc Vương. Niên hiệu Hạ Hùng Vương đời thứ nhất 1232
năm Nhâm Dần trước Công Nguyên.
Thời
dựng nước 79 năm thời Quốc Tổ Vua Hùng.
Thời
giữ nước, mở rộng thêm đất nước 2622 năm.
Thời
con, cháu kế vị các Vua Hùng. Tổng cộng thời dựng nước, thời giữ nước của các
Vua Hùng là 2701 năm. Nhà nước Văn Lang ra đời 2959 trước Công Nguyên.
**************
PHẦN 2
Văn Lang Độc Lập mấy nghìn đời
Nào phải không người chớ dễ ngươi
Con cháu Tiên Rồng luôn yêu nước
Hiếu trung truyền thống dễ mà xơi.
Nước
Văn Lang: Bắt giáp Hồ Động Đình. Tây Bắc giáp Ba Thục. Tây giáp sông Hồng Lạc
tức là sông Mê Công ngày nay. Ở thời Thượng Hùng Vương, Nam giáp Đèo Ngan. Ở
thời Hạ Hùng Vương Nam giáp Hồ Tôn giáp giới Quảng Nam. Đông giáp biển Nam Hải,
Đông Hải.
Nước
Xích Qũy đươc mở rộng vào Nam lên tới 23 Bộ thành nước Văn Lang. Có hai Kinh Đô
chính. Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ là Kinh Đô cổ có từ thời Viêm Đế Thần Nông
trên đất Giao Chỉ.
Còn
Kinh Đô Văn Lang trên vùng đất Phong Châu Nghĩa Lỉnh Phú Thọ là Kinh Đô có từ
thời Hùng Vương. Cũng từ đây nền Quốc Đạo Tiên Rồng mở màng Hiến Pháp nước Văn
Lang. Thượng trị Quốc Đạo, hạ trị Quốc Hội. Trên thi hành Đạo, dưới thi hành
Luật, đồng nghĩa thời nay. Thượng viện Quốc Đạo. Hạ viện Quốc Hội, trên ban
hành Công Đạo, dưới ban hành Công Luật. Nền Quốc Đạo không truyền xuống dân, mà
chỉ truyền xuống Vua. Rồi Vua truyền xuống Quan ở hàng Vương tộc, Châu - Bộ .
23
Bộ thời Văn Lang dựng nước, được duy trì hết thời thượng Hùng Vương. Đến thời
hạ Hùng Vương 23 bộ xác nhập lại còn 15 bộ đó là:
1:
Bộ Giao Chỉ
2:
Bộ Chu Diêm
3:
Bộ Vũ Ninh
4:
Bộ Phú Lộc
5:
Bộ Việt Thường
6:
Bộ Ninh Hải
7:
Bộ Dương Truyền
8:
Bộ Lục Hải
9:
Bộ Gia Ninh
10: Bộ Nhật Nam
11:
Bộ Cữu Chân
12:
Bộ Bình Văn
13:
Bộ Tân Hưng
14:
Bộ Cữu Đức
15:
Bộ Văn Lang
Nước
Văn Lang tuy xác nhập còn 15 Bộ. Nhưng có tới hàng nghìn Châu, Huyện. Đất đai
rộng lớn vô cùng, rộng lớn hơn thời thượng Hùng Vương, giàu có trù phú vô cùng.
**************
PHẦN 3
Văn Lang Độc Lập thái bình ca
Xuân nở đầy xuân gấm đầy nhà
Bổng đâu sấm nổ từ phương Bắc
Giặc Ân tham vọng dấy binh qua.
Thời
hạ Hùng Vương đời thứ 3 Hùng Tiên Lang lên ngôi Quốc Vương trị vì thiên hạ thay
Cha Ông Nội Hùng Yên Lang 1141 trước Công Nguyên. Non sông đất nước thái bình
an lạc, đời sống lên cao, dân giàu có, của Báu đầy nhà. Hoa khôi xuất hiện khắp
nơi, tin đồn vạn cõi. Bay đến tai Ân Thọ Vương Vua Trụ. Đời Ân Vua Trụ là tay
háo sắc, háo chiến, hung bạo, tham lam, độc ác. Lúc nào cũng muốn độc bá thiên
hạ, luôn luôn đi ngược lại lời dạy của các bật nhơn hiền, nghịch Thiên, ác Đạo.
Nghe tin đồn phương Nam giàu có, gái đẹp như Tiên nữ giáng trần. Sơn hào, hải
vị, món ngon vật lạ, ngọc ngà châu báu khắp nơi. Thời lòng thèm muốn nỗi lên,
đến nỗi ăn không ngon, ngũ không yên. Lúc nào cũng nghỉ đến xâm lược thôn tính
nước Văn Lang. Cho đến một hôm Vua Trụ không kèm lòng nỗi nữa, liền thực hiện
làm theo ý muốn của mình. Thường thường Vua Trụ lâm triều hơi muộn. Nhưng hôm
nay lại khác hơn mội khi, Trụ Vương nét mặt rạng rỡ, nhưng không dấu nỗi đầy vẻ
tham vọng, khi thấy các Quan, Tướng đến chầu đông đủ.
Chiểm
chệ trên bệ rồng, Trụ Vương tiếng nói oan oan như sấm, hai con mắt tóe lửa,
nhìn chòng chọc đầy hung khí, ai nhìn thấy cũng phải khiếp sợ, với hàm râu quay
nón dài thòm vểnh ngược như muốn ăn tươi nuốt sống ai đó:
Trẩm nghe nói ở phương Nam Độc Lập gần hai
nghìn năm, uy danh các Vua Hùng lừng lẫy, xem thường phương Bắt chúng ta. Từ
thời Nghiêu, Thuấn nhà Hạ, đến đời nhà Thương ông cha ta. Có trên dưới nghìn
năm. Điều kiên dè Nam Ban Văn Lang. Có lẽ vì thế Nam Ban Văn Lang coi thường
phương Bắc chúng ta. Đời tiền nhân kiên dè, nhưng đời ÂN THỌ VƯƠNG ta thì
không. Ta phải làm cho chúng biết thế nào là sức mạnh phương Bắc ta. Không
những đất phương Nam, mà ngay cả đất Băc chúng ta. Những nước không tùng phục,
thời ta cũng phải xóa sổ chúng làm bá chủ thiên hạ.
Càng
nói Trụ Vương càng đắc ý:
Trẫm nghe đâu thời hậu Hùng Vương, chỉ là
những vị Vua tầm thường, chẳng tài cán chi. Trẩm còn nghe nói nước Văn Lang
giàu có, không những sơn hào hải vị, món ngon vật lạ, ngọc ngà châu báu như núi
như non. Lại thêm văn minh nông nghiệp lúa nước, hạt ngọc ấm no, khai thát đồng
thau, sắt thép vượt bật. Nhất là thép quí hiếm vô cùng.
Vua
Trụ càng kể càng nổi lên thèm khác tột độ. Không những Vua mà ngay cả Quan cũng
nỗi lên sự thèm khác như vậy. Nếu thu phục được nước Văn Lang, gồm thâu Thiên
Hạ Nam Bắc về một mối. Lập lên kỳ tích mà từ xưa tới nay chưa ai làm nỗi. Nhà
Ân sáng chói có một không hai, trong lịch sử nhân loại. Có lẽ lòng háo chiến,
háo thắng, dã tâm, tham vọng quá lớn. Nên đã làm lu mờ lý trí Vua Trụ. Lượm lặt
thông tin không chính xác. Dẩn đến đánh giá thấp nhân tài, thực lực của nước
Văn Lang.
Thừa
Tướng Thương Dung thấy Trụ Vương xem thường nước Văn Lang thời than thầm rằng: Có
lẽ cơ nghiệp nhà Thương sắp hủy diệt, nên bệ hạ mới nỗi lên lòng háo chiến,
ngạo mạng xem thường Nam phương Văn Lang.
Liền
khuyên can Vua Trụ rằng:
Muôn tâu bệ hạ. Nam Ban Văn Lang không phải
tự nhiên mà giàu có, Độc Lập kéo dài như thế, điều có cái gốc rễ nguyên nhân
của nó. Đó chính là nền Quốc Đạo dân tộc. Hiến Pháp của nước Văn Lang, Hiến
Pháp nền Quốc Đạo. Mới thật là Vua của nước Văn Lang. Các Vua Hùng nối nhau phò
trì nền Quốc Đạo nầy. Đánh bại Vua Hùng thời có thể làm được. Nhưng đánh bại
nền Quốc Đạo Tiên Rồng thì…
Thừa
Tướng Thương Dung không giám nói nữa. Vua Trụ nỗi nóng quát:
Thì sao Thừa Tướng không nói tiếp.
Thương
Dung ấp a..ấp úm.
Vua
Trụ nói:
Thừa Tướng cứ nói ta không bắt tội.
Thương
Dung thưa:
Muôn tâu bệ hạ. Thắng người thời dễ, nhưng thắng Đạo, thời từ
xưa tới nay chưa có ai làm nỗi. Huống chi là nền Quốc Đạo Tiên Rồng Hiến Pháp
khai dựng lập lên nước Văn Lang.
Muôn tâu bệ hạ. Nam Ban Văn Lang là một cường quốc vô cùng
lợi hại. Lợi hại cả hai mặt, về tinh thần lẫn vật chất. Đất đai rộng lớn, rừng
núi hiểm trở, sông ngòi, kinh rạch chằng chịt. Đúng là nơi Hổ ẩn, Rồng nằm vô
cùng bí hiểm. Nên gần 2000 năm Độc Lập giữ vững chủ quyền. Không phải là không
có lý do.
Vua
Trụ nghe cũng có lý thời thừ người. Nét mặt buồn thảm vô hạn.
Vưu
Hồn, Bí Trọng thấy Vua Trụ mất vui, liền tâu rằng:
Muôn tâu bệ hạ: Nước Văn Lang thế nầy thế nọ. Chẳng qua là
lời đồn, còn thực tế ra sao thời chưa tỏ rõ. Hùng Tiên Lang chỉ là vị Vua tầm
thường. Chỉ lo an hưởng thái bình vui thú núi non. Các thân Vương, hầu Vương cũng
vậy, bất tài vô dụng, béo mập chẳng nên tích sự gì. Có lẽ đây là cơ hội lập lên
nhà Ân rộng lớn uy danh chúng ta, thống nhất thiên hạ Nam Bắc mở ra trang sử mới,
trang sử hào hùng thời Ân.
Trụ
Vương đang u sầu, nghe Vưu Hồn, Bí Trọng nói có lý, tân bốc sướng tai khoái chí
vô cùng. Thấy Trụ Vương đắc ý nghe lời sàm tấu của loài nịnh hót Hồ tinh.
Mai
Bá tâu rằng:
Ở đời Thái Hậu, đất Ba Thục có hai vị Chúa
Vương là Hồ Xương, Hồ Quảng. Thần thông Pháp thuật vô biên. Có dã tâm lớn muốn
nuốt nước Văn Lang. Nhưng đều thất bại bỏ mạng tại sa trường. Sau đó thời tới
giặc Hung Di Mũ Đỏ là thứ giặc hung hiểm vô cùng, bước chân lên đất Văn Lang liền
bỏ mạng không có ngày về.
Triệu
Khải tâu thêm:
Muôn tâu bệ hạ. Hạ Thần lâu nay vẩn nghe nói
nước Văn Lang có bảy thanh Bảo Kiếm vô cùng lợi hại. Báu vật trấn Quốc, do Quốc
Tổ Vua Hùng truyền lại. Nhờ thế nước Văn Lang vững bền Độc Lập, quân Văn Lang
bất khả chiến bại.
Vua
Trụ nghe Triệu Khải tâu thế mặt liền biến sắc, thấy Triệu Khải đề cao nước Văn
Lang nhân tài báu vật thái quá.
Sùng
Hầu Hổ liền lên tiếng. Sùng Hầu Hổ tính tình mười phần giống Vua Trụ tám chín
phần. Háo sắc, hung dữ, tham lam, xưng hùng xưng bá, luôn coi thiên hạ ở dưới
chân. Nghe Thương Dung, Mai Bá, Triệu Khải đề cao đất Nam. Nhân tài, vật báu,
Quốc Đạo thái quá. Làm giảm uy phong đất Bắc thời đại bành trướng nhà Ân.
Thời
liền tâu lên Vua Trụ rằng:
Muôn tâu bệ hạ. Đời Ân ta so với các đời
trước thời thế lực, vật lực, binh khí, nhân tài mạnh lên gấp hàng chục lần. Có
thể nói là tột đỉnh. Nếu đem so với nước Văn Lang về mặt nào chỉ có hơn chứ
không kém. Nhân sự, quân sự, chính trị, binh lính, đều hơn hẳn nước Văn Lang,
gấp đôi, gấp ba, gấp bốn lần. Hơn nữa đất Ba Thục là do đời Ân ta cai quản. Hồ
yêu, Hồ ma là con cháu của Hồ Xương, Hồ Quảng, từ thời nhà Hạ di cư xuống. Nên
có mối tình giao hảo thời Ân Thương chúng ta. Sức mạnh đất Bắc chúng ta dời núi
lấp sông. Chưa giao chiến sao biết là không thắng. Theo tôi nghỉ nước Văn Lang
chỉ là con cọp đất nắn nặn lên mà thôi.
Trụ
Vương thấy Sùng Hầu Hổ gãi đúng chổ ngứa, khoái chí cười lên ha hả:
Ta cũng muốn xem Nam Ban lợi hại như thế
nào.
Thấy
Vua Trụ đã Quyết, các Quan các Tướng chẳng giám hớ môi.
Đây
nói về Vi Tử Khải, Vi Tử Điển là anh của Vua Trụ. Không được chọn lập lên ngôi
Hoàng Đế. Tuy không phản đối nhưng lòng lúc nào cũng buồn rười rựơi. Nghĩ đây
là cơ hội ngàn vàng. Nếu chiếm được nước Văn Lang thời ta xưng Vương ở đó. Mặc
sức tha hồ mà hưởng.
Liền
tâu lên Vua Trụ rằng:
Hạ Vương cũng muốn tham gia cuộc chiến lập
công góp sức cùng Bệ Hạ.
Vua
Trụ lấy làm ngạc nhiên, không nghi ngờ gì phê chuẩn cho đi Thế là:
Lòng tham bùng dậy đá sắt tiêu
Bất chấp lời khuyên chết cũng liều
Binh hùng tướng mạnh rền đất Bắc
Hung tin nghìn dặm sấm vang kêu
Bầu trời u ám sa bảo táp
Beo gầm sói hụ hiện quỹ yêu
Cuồn cuộn mây đen bay cùng khắp
Trời Nam dân chúng khổ lên nhiều.
***************
PHẦN 4
Tiên Lang đang niệm Cha Trời
Bổng đâu ngọn gió lạnh người bay qua
Hiện đầy quỹ dữ yêu ma
Gươm đao giáo mác bay ra mịt mù
Máu xương đầy khắp hoang vu
Quê hương lửa dậy âm u đen ngòm
Tiên Lang lo lắng bồn chồn
Hợp liền quan tướng, kế bàn chuyển xây.
1141
trước công nguyên Hùng Tiên Lang lên ngôi Quốc Vương. Non sông đất nước thái
bình an lạc, ngô, lúa, sắn, khoai. Nông, lâm, ngư, nghiệp luôn luôn được mùa
lớn. Biển lặng sóng êm, giao thương thuyền bè buôn bán tấp nập. Ao hồ sông rạch
tôm cá đầy ghe. Danh lam thắng cảnh. Ca, múa, chiên, trống, hội hè. Người chen
sắc áo, hoa thắm đua khoe. Ấm tình non nước, ấm nghĩa bạn bè. Hè già nắng dịu,
nẫy đọt non thu.
Nơi
đền thờ. Hùng Tiên Lang đang thành tâm niệm Đức Cha Trời Lạc Long Quân. Địa Mẫu
Âu Cơ. Thời bổng có một cơn gió dữ nỗi lên. Làm đèn nến tắc sạch. Hiện lên đầy
Cáo Sói, Ma Qũy hung tợn. Hùng Tiên Lang giật mình lo sợ. Không hiểu điều gì
sắp xảy ra. Lại thấy binh lữa dậy trời, người chết như rạ. Máu xương đầy khắp
Giao Chỉ. Hùng Tiên Lang liền cho người thông báo khẩn cấp, các bộ các châu về
họp.
Thường
thường hàng năm hai lần họp. Đều ở Cung Hạ Trị Quốc Hội. Nhưng nay cuộc hộp bất
thường lại khác hẳn cuộc hộp ở Cung Thượng Trị Quốc Đạo, nên các quan tướng
cũng đánh giá được phần nào tầm quan trọng của cuộc hộp bất thường nầy .
Có
thể nói là tối quan trọng, liên quan đến sự an nguy Tổ Quốc. Nên sắc mặt các vị
quan tướng người nào, người nấy tỏ vẻ hết sức căn thẳng. Nơi Cung Thượng Trị
Quốc Đạo. Thái Thượng Hoàng Hùng Yên Lang cùng Hùng Tiên Lang ở đó đợi các
vương, các quan, các tướng đến họp. Hương trầm nghi ngút trước Tiên Linh 24 vị
Quốc Vương đã về trời, ngôi cao nhất chính giữa ngôi Quốc Tổ Hùng Vương: Trên
Quốc Tổ là hai Đấng Tiên Rồng, Cha Trời Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ. Còn hai
bên tả hửu dưới ngôi Quốc Tổ. Một bên là Thượng Hùng vương. Một bên là Hạ Hùng
Vương.
Thượng
Hùng Vương: 23 Linh Vị từ cao xuống thấp
Hạ
Hùng Vương: 1 Linh Vị ở trên cao cánh
hữu. Linh Vị Hùng Vân Lang, đời thứ nhất hạ Hùng Vương. Thứ 24 thời Hùng Vương.
Ai
bước vào Cung Thượng Trị Quốc Đạo cũng điều thấy khiếp sợ, trước tài năng uy Đức
của các Quốc Vương Thánh Tổ. Lúc bấy giờ nơi Cung Thượng Trị Quốc Đạo. Bá quan
văn võ đủ mặt chẳng thiếu một ai. Hùng Tiên Lang đi ngay vào ý chính. Kể lại
câu chuyện cách đây bảy hôm. Trẩm đang niệm danh hiệu Đức Cha Trời. Thời một
chuyện lạ lùng rùng rợn xảy ra. Hùng Tiên Lang kể lại không bỏ sót một chi tiết
nào. Nghe xong các Vương, các Quan, các Tướng ai nấy cũng đều kinh hải. Trong
số các Vương gia, có Cao Hầu Tể Vương Gia là con cháu lâu đời của Cao Tông, Cao
Tổ là người giỏi về thiên văn, địa lý, dịch lý, tướng số, thuật số, đón mộng,
Tiên liệu như Thần. Nghe Quốc Vương kể xong liền co tay bấm quẻ, mặt liền biến
sắc. Các Vương, các Quan, các Tướng, không khỏi lo lắng đồng nghỉ việc gì sắp
xảy ra.
Cao
Hầu Tể Vương tâu với Quốc Vương rằng:
Muôn tâu Quốc Vương, hạ quan thấy những ngày
gần đây, trên bầu trời các chồm sao sáng lên một cách kỳ lạ, hạ quan nghỉ mãi.
Bổng một hôm hạ quan thấy mình bay lên trời, tới những vì sao sáng ấy, đó là
những chồm sao gần miền hạ giới, hạ hạ Thiên Vũ Trụ, những chồm sao sáng ấy
chưa có ngôi chủ quản, nên đã phát ra hung tinh, thiện tinh xung phá lẫn nhau,
mỗi ngày một thêm dữ dội. Không lẽ Huyền Cơ Vũ Trụ đã chuyển đến giai đoạn
phong thần, ý Trời chọn người chủ quản cho đủ số bộ máy huyền vi Vũ Trụ. Nếu
thế thời cuộc phong thần sắp xảy ra.
Thái
Thượng Hoàng, Hùng Yên Lang nói:
Không lẻ cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc lại
rơi vào cuộc phong thần?
Cao
Hầu Tể vương nói:
Muôn tâu Thái Thượng, chúng ta là con cháu
Tiên Rồng, giai cấp cao quí Vũ Trụ, giai cấp phật Thánh Tiên. Chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc là cuộc chiến tranh chính nghĩa, không phải là cuộc chiến tranh xưng
hùng, xưng bá, mà cuộc chiến tranh tự vệ theo Thiên luật hành trì, giữ vững cán
cân công lý, bảo vệ độc lập tự do, nhân quyền, bình đẳng công bằng theo thiên
luật tôn trọng lẩn nhau. Vì vậy hi sinh bảo vệ Tổ quốc giữ vững chủ quyền độc
lập là sự hi sinh cao cả, nếu Trời có phong cũng chỉ phong Thánh mà thôi.
Thái
Thượng Hoàng nói:
Ta cũng nghỉ như vậy và ta cũng đã nhớ lại,
các thời Tiên Vương truyền xuống giai đoạn phong Thánh sau phong Thần ba nghìn
năm Hội Long Hoa khai mở. Đó là thời kỳ Quốc Tổ lâm phàm trở lại, mở ra Văn Hóa
Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng toàn thế giới. Đó là việc xa xôi vì phong Thần
chưa xảy ra chúng ta không nên bàn tới nữa, mà hãy bàn về chuyện sắp xảy ra đối
với non sông Tổ quốc chúng ta. Cao Tể Vương cho biết việc Kiết - Hung của toán
quẻ vừa rồi.
Xin
tuân lệnh Cao Hầu Tề Vương nói:
Muôn tâu Quốc Vương có lẽ nước Văn Lang
chúng ta đi vào cuộc chiến chưa từng có ở thời ông cha ta. Quân Bắc giặc Ân
đang dốc toàn lực lượng xâm lượt nước ta với quy mô lớn chưa từng có trong lịch
sử chiến tranh nhân loại, thế mạnh dời non lấp biển. Thời ông cha ta dựng nước
Xích Quỹ, dựng nước Văn Lang. Đã chém không biết bao nhiêu là chúa Yêu, chúa
Quỹ, thuồng luồng, chồn, cáo, sói, rắn, hổ, báo. Nhất là Hồ Tinh - Ngư Tinh -
Mộc Tinh lợi hại vô cùng. Nay chúng đã đầu thai làm người phần đông đều ở
phương Bắc. Dọc theo các con sông lớn từ thượng nguồn cho đến hạ nguồn, như
sông Hoàng Hà, Trường Giang v..v.. và các con sông phụ lưu khác. Có cơ hội là
chúng trả thù tiêu diệt chúng ta ngay và
cơ hội thời cơ đó đã đến. Chúng đã hội tụ đủ nhân quyền tạo dựng được binh hùng
tướng mạnh và đã bắt đầu di chuyển lực lượng xâm lượt thôn tính nước Văn Lang
ta, yêu khí, hung khí xông lên làm cho Trời Đất u ám đến kinh người. Muôn tâu
Quốc Vương. Chúng ta khẩn cấp cho cuộc chiến, dốc toàn lực lượng chống trả một
còn, một mất nầy.
Tây
Thục Hầu nói:
Ta sợ gì chúng, loài ăn cướp chồn, cáo Yêu
Tinh. Tuy nước Văn Lang ta sóng yên, biển lặng, thái bình độc lập đã lâu, nhưng
nhờ vào nền Quốc Đạo, nên con cháu Tiên Rồng lúc nào cũng bền vững ý chí. Muôn
người như một nhứt hô bá ứng. Ta hãy cho chúng biết thế nào là truyền thống anh
hùng dân tộc. Đã dẫm chân lên đất Văn Lang, thời không có ngày về, thây phơi
chật đất, làm phân cho cỏ cho cây.
Hùng
Tiên Lang nói:
Văn Lang chúng ta xưa nay nhân tài mọc lên
như nấm, địa hình phức tạp, núi non hiểm trở, sông lạch chằng chịt, rừng đồi
cùng khắp với địa hình này ta không bao giờ sợ chúng.
Thục
Vương nói:
Muôn tâu Quốc Vương, đúng vậy đúng vậy. Đất
Tây Bắc Văn Lang sẽ là nơi vùi xác chúng.
Hùng
Cao Lang nói:
Nam Kinh Xích Quỹ, Giao Chỉ là vùng đất Tổ
của ông cha ta có bề dày lịch sử hơn ba nghìn năm. Đã từng đánh tan quân xâm
lược Bắc giữ yên bờ cõi, là vựa lúa lớn nhất của nước Văn Lang ta, cũng là
nguồn thủy sản lớn nhất cung cấp cho cả nước. Bắc Giao Chỉ là sông Nam Trường
Giang. Nam Giang chỉ là sông Tây Giang. Quân xâm lược sẽ vùi chôn nơi đây,
không còn một mạng sống sót trở về.
Cao
Lạc Hầu vương thưa:
Muôn tâu Quốc vương. Đông Hải Văn Lang xưa
nay là thế mạnh của thủy chiến, không những mạnh về thủy chiến mà còn mạnh cả
về bộ chiến rừng, lạch chằng chịt âm u. Quân xâm lược sẻ bỏ mạng, thân xác làm
mồi cho tôm cho cá. Trị cái tội xâm lược ngông cuồng của chúng.
Thấy
khí phách hào hùng của các bật Vương, Quan, Tướng. Hùng Tiên Lang lấy làm vừa
lòng nói:
Chúng ta là con cháu Rồng Tiên thời không có
gì phải tham sống sợ chết. Tức thời hàng loạt kế sách, sách lược, chiến lược,
chiến thuật được nêu ra bàn bạc thảo luận nắm lấy mọi chủ động, mọi cơ hội, mọi
thời cơ ứng biến tiêu diệt địch.
**************
PHẦN 5
Nói
về Vưu Hồn, Bí Trọng ngày đêm xúi giục Vua Trụ xâm lăng tiêu diệt nước Văn
Lang, thấy ý mình đã đạt. Trong lòng lấy làm sung sướng đánh một giất ngủ ngon
lành. Bổng thấy hồn mình lạc đến U Hồn Cốc ra mắt Chúa Vương là một con cáo già
bảy đuôi.
Vưu
Hồn, Bí Trọng lạy:
Chúng con ra mắt Chúa Vương.
Chúa
Vương hỏi:
Hai con theo hầu Chúa Tổ có khổ lắm không?
Vưu
Hồn, Bí Trọng ngơ ngát: Không rỏ Chúa Tổ là ai? Nhưng không dám hỏi. Chúa Vương
nói:
Các con đã đầu thai làm người, không phải
loài Cáo nữa. Nhưng Linh giác vẩn không quên mối thù diệt Tổ, diệt Tông của
quân dân Văn Lang cách đây gần hai ngàn năm. Loài Chồn, Cáo ta có cơ hội là
trả thù, đòi lại Địa Long Vũ Trụ. Nhưng đã thất bại nhiều lần. Loài Chồn, Cáo
ta có đến hàng triệu, dù tu luyện đến đâu, cũng không làm gì được loài người,
sẻ bị loài người sát hại. Không dể gì đòi lại Địa Long Vũ Trụ trả mối hận thù.
Chỉ có một con đường duy nhất là xả bỏ thân Chồn Cáo ngàn năm, trăm năm tu
luyện. Đầu thai làm người. Chỉ có loài người mới diệt được loài người, đó là
lời nói của Chúa Tổ. Chúa Tổ đã xả bỏ cái thân tinh khí tu luyện hàng triệu
năm, để đầu thai làm người mưu đồ nghiệp lớn. Làm bá chủ thống trị nhân loại,
trả mối hận thù ngàn xưa, đòi lại Địa Long Vũ Trụ. Không bao lâu nữa, Chúa Tổ
Mẫu của loài Hồ Tinh chúng ta cũng sẽ lâm phàm. Nhưng không đầu thai chi mượn
xác người. Tuy thân hồn các con là người. Nhưng tâm hồn ý thức vẫn còn loài
Chồn, Cáo dù cho Thần Thánh cũng không phát hiện được. Thôi hai con trở về trần
thế đi.
Chúa
Tinh liền thổi một luồng yêu khí vào hồn người Vưu Hồn, Bí Trọng sau đó thời
phất tay một cái. Vưu Hồn, Bí Trọng giật mình thức giất mới hay là mình vừa
chiêm bao. Từ đó về sau lúc nào Vưu Hồn, Bí Trọng cũng xúi dục Vua Trụ làm
nhiều điều đại gian đại ác đối với con người. Nhất là tàn sát con cháu Tiên
Rồng, chiếm lấy nước Văn Lang cho bằng được. Vua Trụ càng ngày càng cương
quyết, huy động binh hùng tướng mạnh tiêu diệt nước Văn Lang càng sớm càng tốt.
Chồn Cáo xưa nay vẫn âm thầm
Mưu mô tiêu diệt các Vua Hùng
Mài gươm nghìn kiếp trên núi hận
Con cháu Tiên Rồng họa hiểm hung
Bắc phương hung khí đầy trời
Từ lâu muốn nuốt Nam thời Văn Lang
Quân hùng tướng mạnh rền vang
Giáo gươm ngun ngút loáng loang kinh người
Trường gian sóng dậy ầm ầm
Lớp sau lớp trước cuộn cuồn tiến qua
Cậy mình quân tướng tài ba
Lòng tham vô đáy Trời coi ra gì.
Trên
đồi Vọng Đọ người ta nhìn thấy quân Ân đông như kiến, trùng trùng điệp điệp lan
lan lớp lớp gươm giáo sáng ngời. Xe ngựa mịt mù có hơn trăm vạn, ai nhìn thấy
cũng thất kinh. Không bao lâu vượt qua Bắc sông Trường Giang, tiến thẳng về Nam
sông Trường Giang. Cách Nam sông Trường Giang hơn khoản 6 hoặc 7 dặm, thời hạ
trại đóng quân tại đó.
Vua
Trụ hạ trại đóng quân chưa được bao lâu, thời có quân vào báo:
Bẩm Chúa Công hơn 50 trấn chư hầu lớn nhỏ đã
kéo đến, tổng cọng trên dưới 60 vạn. Quả là con số không nhỏ.
Vua
Trụ nói:
Quân ta đã lên tới 160 vạn quân thời quân
Văn Lang chỉ cần thấy đã khiếp rồi. Còn đâu tinh thần để mà đánh.
Nói
xong cười lên ha hả vô cùng đắc ý.
**************
PHẦN 6
Vì nước vì non kể chi thân
Thịt nát xương tan chẳng ngại ngần
Một mất một còn quân xâm lược
Rồng Tiên truyền thống diệt quân Ân
Trải mật phơi gan, đầy non nước
Vang rền trung hiếu, Đạo cháu con
Cha ông dẹp giặc nghìn đời trước
Kim cỗ rạng danh mãi thường còn
Nói
về Hùng Tiên Lang Quốc Vương cùng 50 vạn quân tinh nhuệ. Nhắm hướng Nam Kinh
Xích tức tốc lên đường. Khí thế dậy non dậy núi, không bao lâu tới địa phận
Giao Chỉ. Suốt dọc đường, hai bên đường dân chúng hết lòng ca ngợi, hết lòng
sùng kính, hết lòng ngưỡng mộ dâng lên đồ ăn thức uống, lương thực thuốc men đồ
gia dụng cần thiết, gốp công gốp của đánh giặc Ân.
Thấy dân vì nước giọt lệ rơi
Tiên Lang thề nguyện khấn giữa trời
Chỉ còn hơi thở ta cũng đánh
Đánh cho lũ giặc nát tả tơi
Đại
quân đi gần tới Nam Kinh Xích Qũy. Thời chiêng trống dậy trời cờ bay phất phới.
Đó không phải là quân giặc, mà là quân Nam Kinh Xích Qũy đội ngũ chỉnh tề tiếp
đón Quốc Vương. Hùng Tiên Lang khen thầm trong bụng. Bổng tiếng vó ngựa vang
lên rồm rộp. Một đội kỵ mã mũ giáp chỉnh tề oai hùng tiến tới trước Quốc Vương
ra mắt hành lễ. Hùng Cao Lang cởi con ngựa Xích Long Câu to lớn dẩn đầu các
quan tướng, xuống ngựa hành lễ ra mắt Quốc Vương. Hùng Tiên Lang xuống ngựa đở
Hùng Cao Lang dậy nói miển lễ miển lễ.
Hùng
Cao Lang mời Quốc Vương cùng các quan tướng vào thành, đi thẳng vào ngôi Chính
Diện. Nơi mà Quốc Tổ Vua Hùng đã sinh ra. Các quan tướng ở Kinh Đô Văn Lang,
phần nhiều chưa có dịp ra Kinh Bắc, Kinh Đô Nam Kinh Xích Qũy. Thấy sự giàu có
ở đây còn hơn cả Phong Châu Kinh Đô Văn Lang.
Các
quan tướng lấy làm kinh ngạc:
Sao Quốc Tổ không ở đây mà lại ở Kinh Đô Văn
Lang?
Nhưng
không ai trả lời được câu hỏi nầy. Lại thấy nơi chính giữa cung điện có đôi Quốc
Vương Nam Nữ diện mạo phi phàm. Người cha bồng đứa hài nhi, tỏa hào quang. Bức
tượng người cha bồng con. Không ai khác hơn là Đức Vua Kinh Dương Vương. Còn
đứa hài nhi tỏa hào quang ấy, chính là Quốc Tổ Hùng Vương.
Các
quan, tướng nhìn thấy ba bức tượng ấy. Lòng xúc động, như nhìn thấy ở quá khứ
hiện ra hết sức thiêng liêng, ăn sâu vào tâm hồn bao thế hệ con cháu Văn Lang.
Nhất là Quốc Vương Hùng Tiên Lang không sao cầm giọt nước mắt.
Bổng
có người vào báo:
Có Cao Lạc Hầu Vương đến.
Mời
Hầu Vương vào, Hùng Tiên Lang ra lịnh. Cao Lạc Hầu Vương vào ra mắt Quốc Vương
nói:
Xin Quốc Vương tha tội, Hạ quan đến trể.
Hùng
Tiên Lang cười nói:
Miễn lễ.
Sau
đó thời Vua tôi an tọa đi vào nghị sự bàn kế sách chống giặc. Đây nói về Tây
Thục Hầu Vương, sau khi rời khỏi Kinh Đô Văn Lang, cấp tốc bay về Tây Thục.
Có
câu thơ ca rằng:
Bạch Long Thần Mã ai bì
Ngày đi vạn dặm ai thời cũng kinh
Huống chi gặp lúc ngoại xâm
Ngựa bay vun vút vượt tần núi cao
Hơn tên bắn hơn tên lao
Xé mây xé gió, biết bao oai hùng
Thục Vương anh dũng phi thường
Ngựa người lao vút núi rừng vụt qua
Tây
Thục Vương là vị Vương đang cai quản hàng mấy mươi Bộ Lạc, Bộ Tộc vùng Tây Vu
rộng lớn từ Tây Bắc giáp Ba Thục, đến Tây Nam AI LAO dân số lên tới vài triệu
người.
Bắc
Tây Thục gồm những châu lớn như: Di Tây Châu, Ngô Bắc Tây Châu, Hung Hung Tây
Châu, Liêu Tây Thượng Châu, Phù Ung Tây Châu, Tam Giang Tây Châu, Lư Tây Trung
Châu, Lô Lô Tây Châu, Phiên Tây Thượng Châu, Mân Di Tây Châu, Đinh Giao Tây
Châu, Thượng Tây Giang Châu, Uất Lang Việt Châu, Lâm Giang Tây Châu.
Trung
Trung Tây Thục Văn Lang gồm những châu lớn như: Tây Âu Châu, Hồng Thượng Thượng
Châu, Hồng Lạc Châu, Thạch Vân Châu, Thái Vân Tây Châu, Bộc Tây Châu, Cựu Tây
Châu, Thượng Đà Châu, Lai Trung Tây Châu, Âu Điền Châu, Môn Tây Châu.
Nam
Tây Thục Văn Lang gồm những châu lớn như: Lao Sơn Thượng Tây Châu, Lao Sơn Tây
Nam Châu, Lao Sơn Đông Tây Châu, Thượng Thượng Châu, Đà Thịnh Châu, Vệ Linh Tây
Châu, Mã Linh Tây Châu, A Pha Tây Châu, Khơ Khơ Tây Châu, Mường Lai Tây Châu,
Điện Linh Tây Châu.
Tây
Thục Vương có tới chín người con, chia nhau cai quản toàn lãnh thổ Tây Vu, Tây Văn
Lang. Chín người con đó là:
1:
Thục Lao
2:
Thục Man
3:
Thục Di
4: Thục Chăm
5:
Thục Liêu
6: Thục Châu
7:
Thục Mân
8:
Thục Ren
9:
Thục Cương
Đa
phần dân chúng Tây Thục Văn Lang đều xưng dân tộc Âu. Khi Tây Thục Vương về đến
Tây Thục vào thành Âu Tây liền cho gọi chín người con đến bàn tính kế sách
chống giặc ngoại xâm.
Thấy
các con đến đông đủ Thục Hầu Vương nói:
Quân Bắc sắp xâm lược nước Văn Lang ta các
con khẩn cấp về điểm binh mã dốc toàn lưc lượng theo cha đến Nam Kinh Xích Quỹ
chống giặc.
Thục
Lao nói:
Thưa cha từ khi Quốc Tổ dựng nước tới nay,
giặc Hồ, giặc mũ Đỏ, giặc Hung Nô, đã bị ông cha ta đánh tơi bời kinh hoàng
khiếp vía, sau này còn dám hó hé. Đồ ếch, nhái mà cũng đòi vuốt râu Hùm sao?
Tây
Thục Vương nói:
Các con lầm rồi lần này không phải là ếch,
nhái mà là cọp, beo, hổ, báo, Yêu tinh, Quỹ dữ giặc Ân xâm lược nước ta với khí
thế long trời lỡ đất. Cuộc chống ngoại xâm lần này là một còn một mất, các con
hãy chuẩn bị tinh thần cho thật tốt, đối mặt với quân thù.
Các
con Tây Thục Vương nghe nói không cải mà muốn gặp ngay quân thù đánh cho một
trận biết thế nào lợi hại của con cháu Tiên Rồng.
Đây
nói về Hùng Tiên Lang Quốc Vương cùng các Vương, các Quan, các Tướng, bàn kế
sách đánh giặc thời có quân vào báo:
Tây Thục Vương đã tới xin ra mắt Quốc Vương.
Cho
mời Tây Thục Vương vào. Xin tuân lệnh.
Đi
đầu là Tây Thục Vương, sau Tây Thục Vương là 18 võ Tướng cả nam lẩn nữ uy dũng
vô cùng. Hùng Tiên Lang khen:
Quả thật Tây Thục danh Tướng oai hùng.
Tây
Thục Hầu Vương nói:
Tâu Quốc Vương đây là dâu, con, cháu lớn của
hạ Quan các con ra mắt Quốc Vương đi.
Tức
thời 18 võ tướng bước tới hành lễ nói:
Chúng con là con cháu Vua Hùng xin ra mắt
Quốc Vương.
Hùng
Tiên Lang vui vẽ nói:
Miễn lễ, miễn lễ.
18
người con cả dâu lẫn cháu ra mắt Quốc Vương hành lễ xong liền lui ra sau Tây
Thục Vương an vị chỗ ngồi.
Hùng
Tiên Lang Quốc Vương vẻ mặt đầy nghiêm nghị cho người man hộp bảo vật Trấn Quốc
đặc lên hương án, tuyên thệ hành lễ rồi mở hộp ra. Các vương, các quan, các
tướng ai nấy cũng đều hồi hộp, bỗng từng chiếc hộp muôn Đạo hào quang tỏa ra vô
cùng đẹp mắt, đó là ánh sáng của 6 cây bảo kiếm từ thời Quốc Tổ truyền xuống đến
nay chỉ nghe kể, không bao giờ được thấy, chỉ trừ các vị Quốc Vương nối tiếp
nhau trị vì Thiên Hạ.
Hùng
Tiên Lang kể:
Tiên Thiên, Thất Tinh Bảo Kiếm là báu vật có
một không hai vũ trụ. Hùng Vương Quốc Tổ dùng thần thông pháp thuật thu hút
Tiên Thiên, Chơn Âm Chơn Dương tinh hoa vũ trụ kết cấu luyện thành hay còn gọi
là thất linh Bảo Kiếm, không những uy lực vô biên mà còn theo ý tưởng của con
người biến hóa diệu kỳ. Nếu đủ 7 linh kiếm Thiên Tiên vũ trụ, thời Thần Thánh
Phật Tiên cũng khó bảo toàn tính mạng huống hồ là loài Yêu ma Quỹ dữ. Chỉ cần 5
linh kiếm Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ là chúng cũng đã đi đời, nay non sông Tổ quốc đi vào cảnh lâm nguy, không còn
cách nào hơn là đem bảo vật trấn quốc ra xử tử bọn chúng, càn quét quân xâm
lược. Có một điều rất lạ 7 thanh bảo kiếm truyền từ đời Quốc Tổ xuống đến đời
thứ 23 thời thượng Hùng Vương nhưng khi truyền qua đời thứ 24 đời thứ nhất Hạ
Hùng Vương thời xảy ra chuyện lạ. Hùng Vân Lang lên ngôi Quốc Vương làm lể tiếp
nhận 7 thanh báu kiếm trấn quốc. Đang lúc tiếp nhận trong tay đời thứ 23 Hùng
Dịch Lang bỗng trời đất tối om rồi sáng lại rất nhanh chỉ trong vòng nháy mắt
đã mất đi Thượng Thiên Chủ Kiếm chỉ còn lại Hạ Thiên Chủ Kiếm mà thôi. Có lẽ
Quốc Tổ đã thu Thượng Thiên Chủ Kiếm về Trời rồi cũng nên, sự việc ấy xảy ra
cách đây 91 năm và câu chuyện ấy cũng lần lần đi vào quên lãng chỉ riêng các Vua
Hùng kế sau luôn luôn nối tiếc và ta đây cũng vậy. Nay non sông Tổ quốc lâm
nguy vì thế ta đem bảo kiếm trấn Quốc ra tiêu diệt quân thù xâm lược bảo vệ con
cháu Tiên Rồng, bảo vệ non sông Tổ quốc mà ông cha ta đã bao đời dày công xây
dựng.
Thời
gian cấp bách Hùng Tiên Lang phân bổ lực lượng như sau.
Tây Thục Hầu Vương nghe lịnh: Có thuộc hạ.
Hùng
Tiên Lang liền lấy thanh Kim Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm trao cho Thục Vương Gia
nói:
Hầu Vương dẩn 30 vạn quân chia làm 3 mủi
trấn giữ Tây Giang Giao Châu, Dương Giang Châu Kiến Giang Giao Châu, Tam Giang
Tây Châu xin tuân lệnh, nhận ấn đồng vải trắng dẫn quân ra đi.
Hùng
Tiên Lang nói:
Cao Lạc Hầu Vương nghe lịnh: Có thuộc hạ.
Hùng
Tiên Lang lấy Thanh Thủy Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm trao cho Cao Lạc Hầu Vương
nói:
Hầu Vương dẩn 20 vạn quân trấn thủ Đông
Giang Giao Châu, Quế Giang Giao Châu, Lạc Trung Giao Châu xin tuân lệnh, nhận
ấn đồng vải đen ra đi.
Hùng
Tiên Lang lại nói:
Hùng Cao Lang nghe lịnh: Có thuộc hạ.
Hùng
Tiên Lang lấy thanh Hỏa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm trao cho Hùng Cao Lang nói:
Hầu Vương dẩn 30 vạn quân trấn thủ Bắc Giang
Giao Châu, Lạc Giang Giao Châu, Kinh Giang Giao Châu, Giao Giao Minh Châu, Quí
Linh Giao Châu xin tuân lệnh, nhận ấn đồng vãi đỏ dẩn quân ra đi.
Hùng
Tiên Lang lại nói:
Điền Điền Lang nghe lịnh: Có thuộc hạ. Con
nhận lấy thanh Mộc Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm nhận ấn đồng vải xanh dẩn 10 vạn
quân mai phục bảo vệ vòng đai Kinh Đô Xích Quỹ, Hợp Giao Châu, Hạt Linh Châu,
Lạc Điền Châu. Tuân lệnh dẩn quân ra đi.
Hùng
Tiên Lang lại nói:
Diệp Lang nghe lịnh: Có thuộc hạ. Cháu nhận
lấy Địa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm nhận ấn đồng vải vàng dẩn 10 vạn quân mai
phục tại rừng Tiên Du, dưới chân Hùng Phong Sơn tiếp cho quân Tây Thục, cháu
xin tuân lệnh dẩn quân ra đi.
Phân
bố lực lượng xong Hùng Tiên Lang mới thở phào nhẹ nhỏm. Ở tại Nam Kinh theo dõi
tình hình chiến trận, tiếp tục điều động lương thực, quân binh ứng chiến. Thế
là cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc đã mở màn.
***************
PHẦN 7
Trùng Trùng Cáo Sói ở kia sông
Tanh máu xông lên bốc nực nồng
Nhe nanh múa vuốt nghe hùng hục
Liếm mép nhìn qua, Tử Giang sông
Nhắc
lại bên kia bờ Bắc sông Trường Giang ÂN THỌ VƯƠNG lòng nóng như lửa đốt, mau
chiếm lấy nước Văn Lang lên ngôi bá chủ gồm thâu Thiên Hạ về một mối, tùng phục
nhà Ân.
Nói
về Vi Tử Khải, Vi Tử Điển luôn luôn nghỉ đây là cơ hội hiếm có để xưng Vương.
Lòng háo hức muốn tiến quân đánh ngay, liền tâu lên Ân Thọ Vương rằng:
Muôn tâu bệ hạ, hạ thần xin nguyện lảnh ấn
tiên phong đánh chiếm Nam Kinh Xích Quỹ lập chiến công mở màn thu phục nước Văn
Lang.
Vua
Trụ lấy làm ngạc nhiên nhưng rồi cũng cho đi. Vi Tử Khải, Vi Tử Điển, mỗi người
thống lảnh 39 vạn quân chia làm 2 mũi đánh thẳng vào trung lộ Bắc Văn Lang,
chiếm lĩnh các thành lớn như: Lạc Giang Giao Châu, Quý Linh Giao Châu, Kinh
Kinh Giao Châu, Bắc Giang Giao Châu, Xích Linh Giao Châu, Hợp Giao Châu, sau
cùng là chiếm lấy Nam Kinh xích quỹ.
Vua
Trụ lại tiếp tục ra lịnh cho Khương Hoàng Nhân, Triều Chấn Lôi, Tử Điền Phi kết
hợp với 20 trấn chư Hần lớn nhỏ Yên, Sở, Triệu, Tề, Tần, Tấn lên tới 50 vạn
quân. Tấn công Đông Bắc Văn Lang Đông Giao Chỉ chiếm lỉnh các thành lớn như: Đông
Giang Giao Châu, Quế Giang Giao Châu, Liễu Giang Giao Châu, Lạc Trung Châu,
Đông Hải Giao Châu, Hạ Linh Châu sau cùng bọc lên tấn công vào Nam Kinh xích
quỹ, tuân lịnh.
Trụ
Vương lại tiếp tục ra lịnh cho Ngạc Sùng Cảnh, Ngạc Sùng Văn, Triệu Tử Quân,
Chu Công Minh, Thiệu Công Tiển, kết hợp với 20 trấn chư Hầu lớn nhỏ, Mân, Chu,
Cảo, Phong, Ngân, Lâm, Hồ, Hàn, Ngụy lên tới 50 vạn quân. Tấn công Tây Bắc Văn
Lang Tây Giao Chỉ, chiếm lịnh các thành lớn như: Tây Giang Châu, Dương Giao Châu, Kiến Giao
Châu, Hồ Tây Châu, Âu Giao Châu, Tam Giang Tây Châu rồi đánh bọc xuống Lạc Điền
Châu chiếm lấy Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ.
Hùng
Tiên Lang nhìn về phương Bắc, thấy trời đất u ám, sát khí trùng trùng trong
lòng không khỏi lo lắng, liền cho quân lập đài cầu Trời gia hộ cho con cháu
Tiên Rồng giữ vững non sông Tổ quốc.
Vì Nguồn vì Cội vì Cha Ông
Vì nước vì non dốc một lòng
Ta còn hơi thở, còn chiến đấu
Đuổi quân xâm lược khỏi non sông
Nơi
đất Tây Giang Châu ba anh em Thục Mân, Thục Ren, Thục Cương đang ra sức kêu gọi
dân chúng di tản sâu vào Nam lánh giặc, dẩn 10 vạn quân kết hợp cùng quân lính
các quận Huyện nhanh chóng trấn thủ thành Tây Giang Châu. Thành Tây Giang Châu
là nơi trọng yếu giao thương với các thành gần biên giới yếu huyệt của kinh tế,
chính trị, quân sự.Thành Tây Giang Châu, địa thế phức tạp bí hiểm, núi non hiểm
trở, xưa nay quân Bắc xâm lược đều khó vượt qua địa phận đất Tây Giang.
Nơi
thành Tây Giang Châu có vị quan phủ Bố Chính An Lạc Điền là vị quan hiền lành,
văn võ song toàn, luyện được đao pháp thượng thừa, có 2 người con 1 nam 1 nữ
đều là bậc hảo hán anh hùng. Nhận được tin mật báo, quan phủ liền ra lệnh di
tản dân nội thành đi nơi khác, thấy quân Văn Lang đến liền mở cổng thành đón 10
vạn quân vào, rồi đi vào nghị sự bàn luận kế sách chống giặc.
Thục
Mân nói:
Nếu nói về ngôi thứ thời 3 anh em tôi cùng
quan phủ vai vế khác nhau. Nhưng nói về tuổi tác cũng như kinh nghiệm về chinh
chiến, địa hình phức tạp ở đây, thời 3 anh em chúng tôi không bằng đại nhân được,
xin đại nhân chỉ bảo cho.
Thấy
sự ăn nói khéo léo của Thục Mân, An Lạc Điền thầm khen ngợi, nên đã có ít nhiều
thiện cảm, không khách sáo chi nữa liền đưa ra phương án chống giặc, theo sáu
phương án sau:
1: là thông
2: là cảng
3: là đối
4: là ải
5: là hiểm
6: là viễn
Luận về binh pháp xưa nay giặc chưa hiểu về
ta, nên giặc phải chọn nơi đất bình quan cảnh thông thoáng, để dễ tiến, thối
khi gặp trở ngại. Theo hạ quan được biết thế giặc tấn công tây Bắc chúng ta lên
tới 50 vạn quân trong khi chúng ta chỉ có hơn 10 vạn, vì vậy chúng ta không thể
đánh phủ đầu trực diện đối mặt với chúng được, hơn nữa thế giặc chưa mệt mõi,
còn đang hưng phấn chiến đấu ngùn ngụt, vì thế trước mắt thủ thành là chủ yếu,
chờ giặc phân tán lực lượng ta mới ra tay tấn công. Dựa vào thế cảng nơi có
nhiều chướng ngại như Núi, Sông, Kinh Lạch, Rừng, chúng ta mai phục ở đó dụ chúng lọt vào bẩy ra sức
tiêu diệt, lúc này mới dùng chiến thuật đối mặt gọi là chặn dồn ép giặc chạy về
phía hiểm địa gọi là kế ãi. Cắt đứt giặc ra từng khúc gọi là kế tử. Thế giặc đã
lâm vào tử ải thời coi như đã hết đời, chết nơi hiểm địa, giả đò thua dụ địch
sâu vào đất Văn Lang, bất ngờ tấn công cắt đứt liên lạc, tiếp viện đưa giặc vào
thế cô lập làm cho chúng mất ăn, mất ngủ, bất ngờ đồng loạt tấn công giống như
đàn sư tử tấn công con voi, giặc rơi vào thế yếu ngã gục đi đời.
Trong
lúc đang bàn kế sách chống giặc, thời có quân vào báo:
Quân giặc đã tràng qua ải Tây Giang, đã
chiếm lĩnh một số Quận, Huyện. Chúng đang ra sức vơ vét của cải, những người
dân tiếc của không chịu di tản bị giặc tàn sát thê thảm.
Ôi thôi làng xóm còn gì
Hùm Beo Cáo Sói mấy khi hiền lành
Đầy mình móng vuốt cùng nanh
Gái tơ hơi hới phải đành nát tan
Dân lành máu chảy loáng loang
Chúng đâm chúng chém ác gian kể gì
Núi thù biển hận kể chi
Rồng Tiên con cháu xông lên diệt thù.
Nói
về 50 vạn quân cùng 20 trấn chư hầu lớn nhỏ do Ngạc Sùng Cảnh, Ngạc Sùng Văn
chỉ huy. Người ngựa, xe cộ, thuyền bè tiến qua các Quận, Huyện như thát lũ.
Càng lúc càng tiến sâu vào đất Văn Lang, hơn 50 dặm, thời trời cũng bắt đầu xẩm
tối. Trưới mặt là những rừng đồi lô nhô kéo dài tới dãy núi Hùng Phong Sơn cao
vút. Cùng con sông ẩn mình qua bao khu rừng rậm, kinh rạch, ngoằn ngoèo, ngoắt
ngoéo uống lượng quanh co qua những vùng thung lủng lau sậy. Như nói lên bao sự
huyền bí của vùng Tây Bắc Văn Lang.
Ngạc
Sùng Cảnh lạnh cả người, như có gì mách bảo là ngày tử nạn của ông không xa.
Ngạc Sùng Cảnh rùng mình không giám nghỉ nữa. Liền cho quân hạ trại, dừng lại
không tiến sâu thêm nữa.
Ông
nói:
Chúng ta đã tiến quân sâu vào đất Văn Lang
hơn 30 dặm, vượt qua một số Quận, Huyện, chỉ gặp cảnh vườn không nhà trống,
không gặp trở lực nào cả. Điều đó chứng tỏ rằng Quân Văn Lang có chủ ý, không
thể không đề phòng.
Liền
cho trinh thám dò đường thám thính tình hình quân địch. Không bao lâu thời thám
tử về báo:
Trước mặt ta 10 dặm về hướng Nam là vùng gò
đồi rừng Mây, thung lũng, lau sậy có nhiều kinh lạch chảy xuống sông Âu. Qua
khỏi vùng gò đồi rừng Mây về hướng Tây Nam 8 - 9 dặm là thành Tây Giang Châu.
Suốt
cả đêm bọn tướng tá thăng chốt của lũ giặc Ân nổ lực đưa ra kế sách tiến quân
thôn tính toàn bộ địa phận Tây Bắc Văn Lang và cuối cùng thống nhất đánh thẳng
vào ba yếu huyệt chiếm lấy ba thành.
**************
PHẦN 8
Nói
về bộ sậu chủ chốt giặc Ân thảo luận kế sách sáng đêm, tiến quân đánh ba thành.
Ngạc Sùng Cảnh điều động quân binh như sau.
1:
Triệu Tử Quân nghe lịnh: Có thuộc hạ; Tướng quân điểm 10 vạn quân kết hợp với
quân: Chu, Cảo, Phong tiến đánh thành
Tây Giang Châu. Tuân lịnh.
2:
Chu Công Minh nghe lịnh: Có thuộc hạ; Tướng quân điểm 10 vạn quân kết hợp với
quân: Lâm, Hồ, Hàn tiến đánh thành Dương
Giao Châu. Tuân lịnh.
3:
Thiệu Công Tiển nghe lịnh: Có thuộc hạ; Tướng quân điểm 10 vạn quân: Mân, Ngân, Ngụy. Tiến đánh thành Kiến Giao
Châu. Tuân lịnh.
Tiếng gà vừa gáy mộng chưa tan
Ba con rắn độc đã vội vàng
Uốn mình lao tới chân rồm rộp
Các bụi mịt mù trống canh vang.
Mặt
trời còn ngủ chưa thức. Trong màn đêm những giọt sương còn nằm chơi trên mái
lá. Bổng giật mình khiếp sợ, nhìn ba con rắn khổng lồ dài 8-9 dặm cuồn cuộn há
mồm lao thẳng về thành Tây Giang Giao Châu, Dương Giao Châu, Kiến Giao Châu.
Cách thành độ hơn 2 dặm thời ba con rắn dừng lại. Cũng là lúc mặt trời thức
giấc ánh bình minh trở lại với quê. Với cặp mắt cú vọ diều Hâu, Triệu Tử Quân
hết nhìn núi non hùng vĩ, sông nước hữu tình. Những cánh đồng lúa xanh thăm
thẳm, những đàn cò trắng lã bay qua. Đàn ong bướm bay lượn nhành hoa. Như toác
lên đời no ấm xuân hoa. Liền thở dài: Thảo nào mà Bệ Hạ không thèm khác sao
được. Và trách nhiệm nặng nề của ta là phải chiếm cho được thành Tây Giao Châu.
Đây
nói về thành Tây Giang Giao Châu, theo kế sách đã hoạch định. Trời vừa xẩm tối,
từ nơi cửa thành 1 vạn quân bí mật nhắm dãy núi Hùng Phong Sơn âm thầm lặng lẽ
ra đi. Lại 1 vạn nữa nhắm hướng Đông Bắc tới thung lũng rừng Lau Sậy phục kích.
Nhìn thấy quân Ân vượt qua sông, vượt qua rừng Mây như thát đổ, vì chưa có lệnh
nên không tấn công chỉ im lặng để cho giặc đi qua.
Kìa quân ăn cướp đến rồi
Chúng vơ chúng vét hết thời của dân
Của ngon vật lạ chúng ăn
Cửa nhà chúng đốt sang bằng còn chi
Gái tơ chúng bắt nâng ni
Xài rồi chúng lại bắt đi làm hầu
Miếu thờ chúng kể gì đâu
Gái trai già trẻ chúng xâu một lùm
Đáng ra dân phải lên đường
Vườn không nhà trống lánh nương, giặc càn
Cũng vì tiếc của giàu sang
Giờ đành phải chịu lắm đàng họa tai
Kêu trời khóc đất thảm thay
Trời im đất lặng có hay bao giờ
Kia kìa giặc đã công thành
Rồng Tiên Chồn Cáo phân tranh mất còn.
Đứng
trên thành cao, quan văn tướng võ nhìn thấy quân Ân trùng trùng lớp lớp kéo đến
cách cổng thành độ chừng hai dặm thời hạ trại. Chận đường ra vào chính yếu của
thành Tây Giang Châu. Bổng từ nơi doanh trại của giặc, xông ra một tướng oai
phong lẩm liệt, dẩn theo 3 nghìn quân, kéo tới cổng thành dàng trận.
Rồi
lên tiếng hách dịch quát lớn:
Quân cỏ rát thành Tây Châu kia, mau ra qui
hàng thời sống, còn chống lại thời chết.
Khoác
lác vô cùng. Thấy tướng giặc hổn xược ngạo nghễ như vậy, không kèm nỗi sự tức
giận An Lạc Sơn nói:
Thưa cha. Để con ra lấy đầu thằng nhái ranh
đó cho.
An
Lạc Điền nhìn ba vị tướng quân hơi ngần ngại. Thục Mân nói:
Lạc Sơn tướng quân ra trận hết sức cẩn thận.
An
Lạc Điền nhìn An Lạc Sơn nói:
Đây là trận mở màng, chỉ có thắng chứ không
được thua.
An
Lạc Sơn nói:
Con hiểu rồi.
An
Lạc Sơn hăm hở, điểm 3 nghìn quân mở cổng thành xông ra nghinh chiến đón đánh. Thấy
tướng giặc nghinh nghinh tự đắc. An Lạc Sơn vốn khôi ngô tuấn tú. Nay ra trận
mão giáp chỉnh tề, thể hiện khí chất bất phàm oai phong lẩm lẩm. Tướng giặc Ân,
thấy An Lạc Sơn cốt cách oai hùng như vậy cũng phải khen thầm.
An
Lạc Sơn giục ngựa xông tới hét lớn:
Hãy xưng tên họ rồi chết. Làm phân cho đất
Nam ta.
Tướng
giặc tức quá hét lớn:
Nhái ranh, hôm nay là ngày giỗ của ngươi.
Liền
phi ngựa xông tới chém liền mấy nhác. Tướng giặc Ân ấy không ai khác hơn là Ly
Ảnh Quân, con trai của Cảo Hầu Vương là người khắc tiếng về Đạo pháp. Có thể
lấy mạng đối thủ ngoài mười thước. Biệt hiệu là Vô Ảnh Đao. An Lạc Sơn nào có
kém chi. Nhờ ăn được quả linh chi ngàn năm. Nên đã luyện Đao pháp đến xuất thần
nhập hóa. Thế là hai con cọp vồ nhau chí tử. Các bụi mịt mù, ánh Đao chớp chớp,
đinh tai nhức óc, rét rét, ầm ầm kinh thiên động địa, kẻ qua người lại như bóng
với hình. Chiêng trống rền trời, quân reo dậy đất.
Đúng
là:
Một bên vì nước vì non
Một bên xâm lược ác gian kể gì
Đao qua đao lại kể chi
Bình sanh dốc hết lấy đi đầu thù
Đao đà luyện đến hư vu
Cuồn phong lạnh buốt âm u rợn người
Đánh cho tới mãi trời chiều
Bất phân thắng bại khó mà hơn thua.
Thế
là hai bên đành thu quân hẹn ngày mai một còn một mất. Vào cung thành, An Lạc
Sơn thưa với Thục Vương rằng:
Bẩm chủ soái mạc tướng tội thật đáng chết.
Trận đầu mà tôi không lấy được đầu giặc làm mất nhuệ khí ba quân tướng sĩ.
Thục
Mân nói:
Ra trận thắng thua là chuyện bình thường. Thủ
hòa coi như là lập được công đầu.
Nói
về tướng giặc Ly Ảnh Quân sáng bữa sau xin Chủ Soái ra trận nữa. Triệu Tử Quân
nói:
Tướng quân nghỉ cho khỏe, nay để cho tướng
khác ra trận.
Biết
Chủ Soái không ưng ý, bằng làm thinh không giám thưa thỉnh nữa.
**************
PHẦN 9
Trời
vừa hừng sáng. Quân vào báo rằng:
Quân Ân rầm rầm rộ rộ kéo đến gây chiến.
Nghe
thế tất cả quan tướng đều lên thành để xem. Thấy quân Ân lập lên đài quan sát.
Cờ hiệu Chủ Soái Triệu Tử Quân. Quân binh đông như kiến. Thời thấy rõ dụng ý
của giặc là quyết tâm xóa sổ thành Tây Giang Giao Châu, Triệu Tử Quân đứng trên
đài quan sát chỉ huy.
Với
cặp mắt cú vọ dều hâu, Triệu Tử Quân phất cờ hiệu lệnh, tức thời cánh tả đài
quan sát có một tướng oai phong lẩm lẩm. Đầu đôi Kim Khôi, mình mang giáp đồng,
cởi ngựa ô, tay cầm Long đao nặng sáu mươi cân, lách mình tới trước đài quan
sát nói:
Bẩm chủ soái. Để thuộc hạ khiêu chiến trận
này.
Triệu
Tử Quân đồng ý nói:
Tướng quân điểm năm nghìn quân kéo tới sát
cửa thành, khiêu khích khiêu chiến, làm cho địch ra mặt và tiêu diệt chúng,
tuân lệnh.
Người
tướng ra trận đó không ai khác hơn là Chu Vũ Chương con trai lớn nhất của Chu
Công, nổi tiếng là luyện được ngọn chỉ phong vô cùng lợi hai giết người nháy
mắt. Dẩn 5 nghìn quân ra trận kéo trước tới cổng thành thách thức phách lối
ngạo mạng coi quân tướng Văn Lang như loài ếch nhái, thùng rổng kêu to mà thôi.
Thành
Tây Giang Giao Châu, chiêng, trống nỗi lên rền trời rền đất. Ba anh em nhà Tây
Thục mở cửa thành xông ra bày binh bố trận đối mặt với quân thù. Thấy tướng
giặc Ân ngạo mạn phách lối.
Thục
Ren nói:
Để em ra lấy đầu tên giặc cướp này cho hả
cơn giận.
Liền
điểm năm nghìn quân xông tới xáp chiến. Hai tướng như hai con hổ gầm gừ lao tới
quật nhau ầm ầm. Thục Ren nhờ có sức mạnh Trời ban, mình mang giáp đồng nặng
tới 100 cân, cỡi con ngựa huyết hản cao lớn, trường thương nặng hơn 80 cân lao
qua lao lại vùn vụt. Những nhát thương như sấm sét, chưa đầy 30 hiệp, tướng
giặc biết mình đánh không lại liền dở tuyệt chiêu vận hết 12 thần công lực,
quát lên một tiếng như sấm sét, bàn tay liền đỏ như máu, phóng luôn chín chỉ
huyết ma công, chỉ phong xé gió véo véo thật kinh người. Thục Ren bất ngờ tránh
không kịp trúng luôn sáu chỉ, có chỉ đã thủng giáp nhưng chưa gây được nội
thương. Nếu không nhờ có áo giáp quá dày coi như đã toi mạng. Thục Ren nỗi trận
lôi đình, trường thương xé gió ào ào, ngựa người như tia chớp gián xuống ầm ầm.
Tướng giặc tay chân rã rời trúng liền một thương chết ngay tại chổ.
Trên
đài cao Triệu Tử Quân khiếp vía: Tướng nào mà dữ thế? Thấy con tử trận Chu Công
vô cùng đau xót, tức giận đến nỗi râu tóc dựng ngược, cỡi Chiến Mã lao ra, nhắm
Thục Ren chém xuống. Đây là loại kiếm báu hiếm quí trên đời, chém sắt, đồng như
chém chuối, không hiểu là ai đã luyện đúc ra nó. Chỉ biết là tìm thấy trong
hang động. Thục Ren bất ngờ đưa trường thương lên đở, liền bị chặt đứt làm mấy
khúc, Thục Ren kinh hãi phi ngựa bỏ chạy. Chu Công nào để cho Thục Ren chạy
thoát.
Với
chiêu Mãnh Hổ Vồ Mồi, đường kiếm như tia chớp chém xuống đầu Thục Ren. Kết liễu
kẻ địch trả thù cho con. Thục Ren mạng sống chỉ còn trong đường tơ kẻ tóc.
Bổng
tiếng quát lanh lảnh thét lên:
Ác tặc hãy xem bảo bối của ta đây.
Tức
thời một Đạo hào quang chụp xuống đầu Chu Công. Chu Công khiếp vía hồn kinh
thâu kiếm lại chống đở ầm ầm. Thục Ren thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Tức
giận đùng đùng còn lại khúc cán của trường thương, nhân cơ hội Chu Công lo
chống đở bảo bối của vợ phóng ra, bị hào quang bảo bối làm chóa cả mắt. Thục
Ren lấy Kim Lê nhọn hoắt phóng tới một tốc lực kinh người lao nhanh về Chu
Công. Thế là một tiếng rú thê thảm làm kinh rợn lòng người. Thục Ren lao tới
lấy đầu đối thủ.
Bổng
nghe tiếng quát nỗi lên như sấm:
Nghiệt súc hổn láo.
Thục
Ren bị một luồng kình lực hất bay bổng cả người lẩn ngựa lên cao, ngã nhào lộn
trọc. Nàng liền lao mình tới xem chồng có sao không. Thục Ren chưa hết kinh
hoàng. Nhìn luồng kình lực đó cuốn hút lấy xác cha con Chu Công cùng thanh kiếm
báu vô cùng lợi hại bay ra khỏi trận địa.
Nói
về nàng Nê Xi xinh đẹp theo chồng xung trận, lòng hồi hộp không yên lúc nào
cũng cầm bảo bối trên tay. Thấy chồng sắp mất mạng. Nhanh như tia chớp niệm chú
ném bảo bối xuống đầu Chu Công cứu chồng. Sự việc diển biến quá mau lẹ. Thấy
Chu Công đã bị chồng mình hạ gục, liền thâu bảo bối lại. Sững sốt kinh hoàng,
khi thấy chồng mình cả người lẩn ngựa hất lên cao rớt xuống lăn lông lốc. Nàng
liền lao tới thấy chồng không sao. Mới tỉnh hồn. Người có Pháp thuật kinh người
đó không ai khác hơn chính là Hồ Ma Yêu. Một tay Pháp thuật kinh người.
Thấy
giặc Ân chết liền hai tướng, Quân Văn Lang thắng thế. Thục Mân chỉ kiếm ra lệnh
tấn công, tiến lên tiêu diệt quân thù. Tiến lên. Tiến lên. Thế là
Gươm Đao vang động chân trời
Ngựa người ập tới mịt mù tên bay
Giặc Ân rời rả chân tay
Bảo tên mưa gió chết ngay bạc ngàn
Quân Nam mặt trận thắng giòn
Ngựa người lao tới đạp càn giặc Ân
Trên thành chiêng trống vang ngân
Thu quân trở lại chiến công lẫy lừng.
Trên
đài quan sát, Triệu Tử Quân sắc mặt mỗi lúc một thêm kinh hoàng. Thấy chết liền
5 tướng, quân binh chết la liệt, hơn vạn quân đi đời, thời than thở ra lệnh rút
quân về doanh trại.
Suốt
đêm không ngủ than thở mãi. Nói với các tướng:
Từ trước đến nay ta chinh chiến đã nhiều.
Chưa thua trận nào nhục như trận nầy, đã mất 5 tướng hao binh hơn một vạn. Việc
chiếm lấy thành Tây Giang đã có phần khó khăn tính liệu làm sao thở than mãi.
HỒ
MA YÊU nói:
Không phải ta thua, mà ta quá chủ quan, đánh
giá địch quá thấp. Binh gia thắng bại là chuyện thường. Chủ Soái yên tâm mai
tôi ra trận sẽ lấy đầu bọn chúng tế Linh Hồn tướng sĩ.
Triệu
Tử Quân nói:
Ta cũng cầu mong Hồ Lão tướng quân làm được
như thế. Lão tướng quân cần bao nhiêu quân.
Thưa
Chủ Soái:
Thuộc hạ chỉ cần ba nghìn quân tinh nhuệ mà
thôi.
**************
PHẦN 10
Tưởng đâu Nam Quốc dễ xơi
Nào hay bỏ mạng ở nơi xứ người
Xưa nay muôn sự ở đời
Ngông cuồn xâm lược mấy đời ai nên
Hại người, người hại liền bên
Thây phơi chật đất mấy khi còn về
Văn Lang Rồng hội Cọp hề
Nuốt quân xâm lược ngón nghề xưa nay.
Nói
về Cao Lạc Hầu Vương, nhận lảnh Thủy Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm, tinh thần vô
cùng phấn chấn. Cao Lạc Hầu Vương là nhà quân sự lỗi lạc tài ba, thống lảnh 20
vạn quân trấn thủ Đông Bắc Văn Lang, Đông Giao Chỉ. Không tiến về thành Đông
Giang Châu, Quế Giang Giao Châu, Liễu Giao Châu mà kéo quân đến Trúc Lâm, Lạc
Trung Châu hạ trại đóng quân ở đó. Đặc phái đội quân thám báo khắp mọi chổ mọi
nơi. Bám sát theo dõi mọi động tỉnh của giặc.
Trong
lúc hộp bàn khẩn cấp lên kế hoạch đối phó với giặc. Thời có quân vào báo:
Các thám tử mật thám xin cần gặp Hầu Vương.
Cho họ vào. Xin tuân lịnh.
Không
bao lâu ba mật thám xuất hiện. Người thứ nhất báo rằng:
Bẩm Vương Gia. Quân Ân đang chuyển về hướng
Đông, liền tách chia ra làm hai mũi. Một mũi theo sông Trường Giang ra biển.
Một mũi bộ binh tấn công qua đất liền.
Người
thứ hai báo cáo:
Bẩm Vương Gia. Cánh quân xuôi theo sông
Trường Giang ra biển hơn nghìn chiếc thuyền lớn nhỏ. Có ba chiếc thuyền cực lớn
ước lượng chừng 15 vạn quân.
Người
thứ ba báo cáo:
Bẩm Vương Gia. Cánh quân giặc bộ binh, kỵ
binh tấn công đất liền. Xe cộ hàng nghìn chiếc. Hình như phương tiện dụng cụ
công phá thành, ước lượng 35 vạn quân.
Nghe
qua tình hình báo cáo. Cao Lạc Hầu Vương nói:
Quân Nam, Bắc ở sát bên nhau, núi liền núi,
sông liền sông, biển liền biển. Có thể nói hiểu nhau nữa là khác. Nên sự xâm
lược của chúng, phải nói là chu đáo khá đầy đủ, phương tiện, dụng cụ, khí cụ, quân,
lương, tướng tá, binh pháp, sách lược, chiến lược, chiến thuật dồi dào. Chúng
ta cũng chia làm hai ngã để đối phó với chúng. Đường bộ và đường thủy. Chúng
chia làm 2 ngã tấn công ta. Đường bộ đánh phủ đầu. Đường biển đánh bọc hậu.
Theo kế sách cắt đứt các đường, chi viện, tiếp viện. Đánh rắn đánh đầu. Những
Châu mà chúng cho là trọng yếu đưa đến thắng lợi mau chóng.
Chúng ta chỉ có 20 vạn quân. Nếu dùng quân
đối quân trực diện tấn công thời nguy cơ chiến bại là rất lớn. Chi bằng chúng
ta giành lấy mọi chủ động, áp dụng kỷ thuật, vận dụng địa hình địa thế, đất
nước gió lửa làm tiên phong ở mọi lúc mọi nơi. Nòng cốt chủ yếu vẩn là đội quân
cảm tử sẵn sàng cống hiến đời mình cho quê hương non sông Tổ quốc, áp dụng
chiến thuật quấy rối phân tán lực lượng giặc, dụ giặc vào bẩy để làm thịt, đã
tấn công thời đánh vào chỗ yếu huyệt của chúng. Những chỗ giặc không ngờ tới,
thiếu đi sự phòng bị đề cao cảnh giác. Vì thế sự đòi hỏi ở đây là tinh thần quyết
tử cho Tổ Quốc quyết sinh, dám nghỉ, dám làm, dám liều, quyết định vận mệnh non
sông Tổ Quốc, sự thắng bại đều ở lòng quyết tử hay không quyết tử mà thôi.
Chiến thuật né tránh đối diện chúng là chiến dịch tạm thời vì con mãng xà đang
lúc còn sung sức. Vũ khí của chúng ta không chỉ có gươm đao, cung tên, giáo mác
mà còn có núi, rừng, sông, hồ, gió, nước, lửa. Kế bẩy hào sâu, hầm chông, độc
dược v..v. Mà còn có cả gươm Thiên Trấn Quốc, truyền thống nền Quốc Đạo dân
tộc. Với cái lối đánh mượn gió hạ cây, ròng rọc kéo voi, lấy ít thắng nhiều,
làm hoang man tinh thần của giặc. Hàng rào phòng thủ của ta lúc này là vườn
không nhà trống. Quân giặc nóng lòng thôn tính nước ta, còn ta thời nhàn hạ tùy
cơ ứng biến.
Nói tóm lại ta thời hiểu rõ về giặc mà giặc
thời không hiểu rõ về ta, ý định và cơ mưu, thời phần thắng đã nghiêng về ta
rồi. Chúng ta có thể biến núi thành gò, biến biển thành ao, biến Rồng thành rắn
nước, để cho chúng kinh thường, để rồi nhận lấy đại bại.Cao Hầu Vương liền ra
lịnh kêu gọi dân chúng trong thành ngoại thành, khẩn cấp di tản sâu vào đất
liền nhất là bốn thành, Đông Giang Giao Châu, Lâm Quế Giao Châu, Liễu Giao
Châu, Môn Hải Hạ Giang Châu.
Tình
hình quá khẩn cấp, Cao Lạc Hầu Vương liền phân bổ lực lượng như sau:
Cao Lạc Hải nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân thống lảnh 8 vạn quân
thủy chiến đến Dạ Loan Châu trấn thủ eo Môn Hải Hạ Giang Châu, dụ giặc vào sâu
đất liền tiêu diệt chúng tại đây, tuân lệnh.
Nguyễn Sinh Kỳ nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng
quân điểm 1 vạn quân tới thành Đông Giang Giao Châu, kết hợp binh lính các Quận
Huyện theo kế giăng bẩy, đào hầm hố, cọc chông, ngụy trang theo đường dọc ngan
khắp cung thành, trên cung thành cũng giăng bẩy khắp mọi nơi, dọc ngang hai bên
đường, những vật dễ cháy vung vãi khắp mọi nơi. Khi giặc tràn vào thành đến đâu
là châm lửa đến đó cho chúng chạy loạn xạ sụp hầm mà chết. Dùng hỏa công tên
độc triệt hạ thiêu rụi chúng, sau đó rút quân theo đường hầm bí mật ra sông Lạc
chi nhánh của sông Trường Giang lẩn sâu vào rừng U Minh Hạ, ở đó đợi lịnh tiếp
theo. Tuân lệnh.
Trần Nhân Luân nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng
quân dẩn 2 vạn quân trấn thủ thành Lâm Quế Giang Châu. Chuẩn bị dầu sôi lửa
bỏng, cung tên lưới sắt cố thủ thành, khi nào thấy núi Ngũ Chân có ánh lửa,
chiêng trống nỗi lên inh õi nơi doanh trại của giặc, thời mở cổng thành xông ra
tấn công tiêu diệt kẻ thù, tấn công hai mặt sau lưng đánh tới trong thành đánh
ra, kẹp giặc vào giữa mà xơi. Tuân lệnh.
Nguyên Chấn Lạc nghe lịnh: Có thuộc hạ.
Tướng quân dẩn 3 vạn quân, cành lá ngụy trang ở dưới chân núi Ngủ Chân một dặm
về hướng Bắc phục kích ở đó, khi nào thấy núi Ngũ Chân có ánh lửa, liền tấn
công khúc giữa con mãng xà cắt đôi lực lượng đầu đuôi chúng ra. Tuân lệnh.
Cao Hùng Phi nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân dẩn 3 vạn quân, cách
thành Lâm Quế Châu 3 dặm về hướng Đông mai phục ở đó, khi thấy ánh lửa núi Ngũ
Chân bùng lên thời di chuyển áp sát đầu con mãng xà chờ khúc giữa con mãng xà
bị tấn công trước độ chừng gần nữa cây nhang. Thời tiến quân xông trận đánh phủ
đầu con rắn độc, không cho chúng quay đầu trở lại. Tuân lệnh.
Huỳnh Trung Hải nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng quân dẩn 1 vạn quân tới
chân núi Ông Tượng gần U Minh Thượng, phục kích ở đó khi nhìn thấy ánh lửa ở
núi Ông Tượng, thời tiến quân áp sát đuôi con mãng xà, chờ cho gần cây nhang,
thời tấn công tiêu diệt khúc đuôi dồn chúng tháo chạy trở lại. Tuân lệnh.
Đinh Hùng Quân nghe lịnh: Có thuộc hạ. Tướng
quân điểm 5 nghìn quân phục kích ở huyện Lâm Giao. Không đánh giặc đến mà chỉ
đánh khi giặc thua rút chạy. Tuân lệnh.
Tuy
bầu trời yên tỉnh, nhưng dưới đất khắp non sông Tổ Quốc lời cầu nguyện vẩn
vang, vang cầu Cha Rồng, Mẹ Tiên che chở.
**************
PHẦN 11
Nói
về quân Ân ỷ sức mạnh, do Khương Hoàng Nhân, Triều Chấn Lôi, Tử Điền Phi. Thống
lảnh hơn 50 vạn quân. Chia làm hai ngả. Một xuôi theo sông Trường Giang tiến về
Đông Hãi, thuyền lao đi vùn vụt. Một vượt qua sông Trường Giang như thát đỗ,
cuồn cuộn lao đi khói bụi mịt mù, kéo dài vài chục cây số. Tiến thẳng về thành
Đông Giao sang bằng các Quận Huyện, gà chó cũng chẳn còn. Khi còn cách thành
Đông Giang Giao Châu hơn 20 dặm về hướng Bắc. Thời dừng quân hạ trại nơi đó.
Bàn luận kế sách công thành.
Khương
Hoàng Nhân nói:
Đây là cuộc chiến chỉ có thắng chứ không
được bại. Vì cuộc chiến nầy là xóa sổ nước Văn Lang, vì vậy cuộc đánh đầu tiên
là cuộc đánh vô cùng quan trọng, chỉ có thắng chứ không được thua. Bằng mọi giá
phải lấy cho được thành Đông Giao, phải chuẩn bị dụng cụ công phá thành, lực
lượng hùng hậu, thang dây, và các dụng cụ khác công phá thành. Mở màng chiến
dịch thôn tính nước Văn Lang.
Khương
Hoàng Nhân hỏi:
Có tướng nào mở màng khai đao, mỗ gà, xẻ lợn
không?
Thấy
các tướng có vẻ yên lặng. Khương Hoàng Nhân hơi có vẽ bực mình. Tử Điền Phi
liền nói:
Bẩm Thống Soái. Sá gì cái thành cỏn con đó.
Thuộc hạ xin đi tiên phong lập công đầu.
Khương
Hoàn Nhân liền phê chuẩn cho đi. Tử Điền Phi liền điểm 10 vạn quân kết hợp với
quân: Sở, Yên, Tề lên tới 15 vạn quân, nhắm Thành Đông Giang Giao Châu tiến
tới.
Nhắc
về Nguyễn Sinh Kỳ theo kế sách chỉ đạo của Cao Hầu Vương Gia dẩn 1 vạn quân đến
thành Đông Giang Giao Châu, cố thủ hai ngày. Ngày thứ ba lúc trời sắp tối thì
giả thua, dụ chúng vào thành dùng hỏa công, hầm chông, tên độc hạ gục chúng, độ
chừng hơn canh giờ thời rút lui bảo toàn lực lượng. Khi rút lui thời châm lửa
đốt sạch, nếu không đốt thời giặc cũng đốt phá, thà ta đốt trước thời có lợi
hơn, không cho giặc lấy được một thứ gì. Lại chận đường rút lui bằng hỏa công,
khói lửa mịt mù. Giặc không bao giờ tìm được đường rút lui của ta.
Đứng
trên thành cao, Nguyễn Sinh Kỳ cùng các quan các tướng. Thấy quân Ân trùng
trùng lớp lớp, xe cộ mịt mù thời lấy làm kinh hãi. Nhưng các quan, tướng nghĩ
đến quê hương Tổ Quốc bị giặc Ân dày xéo, dân chúng lầm thang.
Thời
nộ khí xung thiên nổi lên, râu tóc dựng ngược liền rút kiếm chỉ giặc Ân hét
lớn:
Văn Lang ta xưa nay không xâm phạm đất Bắc.
Nước giếng nào có xâm phạm nước ao. Thế mà sao các ngươi xâm lược tàn hại dân
ta đầu rơi máu đổ. Quân xâm lược các ngươi phải chết, lũ ác ôn các ngươi sẽ bỏ
mạng nơi đây. Quân xâm lược các ngươi phải chết, các ngươi sẽ bỏ mạng nơi đây.
Tiếng
hô vang càng về sau càng hào hùng. Hùng khí Nam Thiên, ai nghe thấy cũng khiếp
sợ. Giặc Ân nghe tiếng hô đầy hào hùng, đầy căm hận của quân Nam. Có một số
đông binh lính giặc Ân đã sanh lòng khiếp hải.
Tử
Điền Phi nghỉ: Nếu chần chừ kéo dài thời gian sẽ gây bất lợi cho quân ta. Việc
đầu tiên là phải khiêu chiến thăm dò thực lực của địch.
Tử
Điền Phi liền ra lệnh:
Cơ Hầu Yên nghe lịnh. Có thuộc hạ.Tướng quân
dẩn 5 nghìn quân tới sát cổng thành khiêu chiến. Tuân lệnh.
Cơ
Hầu Yên dẩn 5 nghìn quân kéo đến trước cổng thành khiêu chiến. Khiêu chiến đến
nữa ngày vẩn không thấy quân Nam ra giao chiến. Dù cho giặc Ân khiêu khích chửi
rủa chọc tức đến đâu. Quân Nam chỉ thủ thành không động tỉnh gi cả. Thấy quân
Nam không dám ló mặt ra xáp chiến cứ co ro thủ thành.
Cơ
Hầu Vương nói:
Bẩm chủ Soái. Có lẻ chúng thấy quân ta binh
hùng tướng mạnh, nên không dám mở cổng thành ra giao chiến. Cố thủ chờ quân
tiếp viện mà thôi. Chúng ta chỉ còn cách là công phá thành tiêu diệt chúng.
Lử
Hầu Tề Vương nói:
Bẩm Chủ Soái. Một Thành Đông Giao cỏn con
nầy thời có đáng sá chi. Quân Nam nghỉ cho cùng cũng chỉ là bất tài đồ bị thịt,
không có gì là đáng sợ. Chúng ta đã càn qua một số Châu, Quận, Huyện. Chúng ra
sức chống trả. Nhưng toàn là những binh lính tạp nhạp vô dụng. Thành Đông Giao
nầy tuy có phần kiên cố hơn, nhưng binh sĩ cũng chỉ là loài ếch nhái, cá mè một
bọn mà thôi. Chúng ta mau tấn công thành làm thịt chúng.
Tử
Điền Phi nghe Lữ Hầu Tề nói chí phải. Liền ra lệnh cho một vạn quân. Kết hợp
với quân Yên, Tề công phá thành. Tử Điền Phi không còn cách nào hơn mới ra lệnh
tấn công phá thành. Việc tấn công phá thành là việc hạ sách tốn kém, hao quân
tổn tướng. nếu quân Văn Lang phòng thủ vững chắc, thời có thể 1 chọi 10. dù cho
phá được thành, cũng phải trả cái giá rất đắc. Việc hao tổn về mình là rất lớn.
Nhưng ở thế tiên phong cỡi cọp, thời chỉ còn cách là tiến về phía trước hạ gục
đối phương. Giành lấy thắng lợi về mình chiếm lĩnh thành Đông Giang Giao Châu
làm bàn đạp cho bước một. Thế là cuộc chiến, công thành bắc đầu. Vì chuẩn bị
trước nên quân Văn Lang nắm mọi ưu thế chủ động. Vì dòng giống Tiên Rồng,
truyền thống anh hùng. Vì non sông Tổ Quốc mà chiến đấu. Chiến đấu anh dũng,
chiến đấu khôn khéo đầy mưu trí. Chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Trên
dưới hai vạn quân Ân được lệnh tấn công hàng loạt xông lên tử chiến.
Thế
là:
Lữa dầu trút xuống như mưa
Đá cây lao xuống nào thua thát gầm
Đất trời rung chuyển ầm ầm
Giặc Ân tan xát cháy thành bụi tro
Xác phơi như rạ như rơm
Tên Thần xé gió khiếp hồn giặc Ân
Thây giặc chồng chất như non
Điền Phi tức quá lộn gan lên đầu
Dồn quân xông tới mịt mù
Ba ngày mới phá được thành Đông Giao
Rền trời ngựa hí quân reo
Giặc Ân nước lũ tràng vô cung thành
Rồng Tiên biến mất thình lình
Bổng đâu lữa dậy đùng đùng khắp nơi
Lửa Thần tìm giặc mà xơi
Ngựa người khiếp vía đạp thôi ngựa người
Đạp nhau sống chết kể gì
Sói lan lũ giặc phen nầy ra tương
Hầm chông vùi xác giặc muôn
Chông xơi hầm nuốt còn chi cuộc đời
Yên, Tề tên độc trúng rồi
Hồn lìa âm phủ muôn đời đọa sa
Tưởng đâu tài trí ba hoa
Nào hay mắt bẩy phải sa đường cùng
Giặc Ân la liệt xác người
Ngông cuồn xâm lược bỏ đời tại đây
Điền Phi hồn phách tiêu ma
Chỉ còn 5 vạn lết la dọc đường
Tưởng đâu phá được thành rồi
Ngọc ngà châu báu mặc thời vét vơ
Nào hay chẳn có thứ chi
Khắp thành tro bụi bay đi tìm trời
Ở đời ăn cướp ở đời
Con đường kết cuộc mấy đời ai nên
Luật trời luôn ở kề bên
Chuyển xây bộ máy huyền vi tàn đời.
Nói
về Tử Điền Phi ra lịnh tấn công tứ phía gần 2 vạn quân ồ ạc xông lên thành,
càng xông lên thời càng chết. Ngày thứ nhất, ngày thứ nhì cho đến hơn nữa ngày
thứ ba cũng chưa phá được thành. Quân Ân chết la chết liệt, ước lượng hơn 4 vạn
quân. Tử Điền Phi tức Phát điên. Liền ra lệnh cho 11 vạn quân còn lại xông lên
tấn công. Tức thời lớp trước ngã xuống lớp sau tràng lên. Càng lúc càng nhiều
đông như kiến. Quân Văn Lang cố sức chống cự cho đến lúc trời gần sắp tối. Thời
chống không nỗi nửa. Quân Ân phá cổng thành, leo tường ùa vô như cơn bão lũ. Nhưng
kỳ lạ thay quân Văn Lang biến đi đâu mất. Bất ngờ lửa dậy khắp nơi, gặp lúc
ngọn gió Đông Nam hoạt động mạnh. Ngọn lửa bốc cháy cao chín mười mét lan nhanh
dữ dội. Quân Ân tràng vô thành đông như kiến, bất nhờ bị ngọn lửa thiêu đốt.
Chạy toán loạn sụp hầm chông, hào chông, bẩy chông, quân Ân kinh hoàng hoảng
khiếp.
Cơ
Hầu Yên, Lữ Hầu Tề, cùng các quan tướng khác biết mình đã sa lưới trúng kế
địch. Nhưng đã muộn rút lui không kịp nữa vì tên xơi, hào nuốt, lửa đốt, chông
đâm. Quân binh hỗn loạn, người ngựa dẫm đạp lên nhau chết thôi là chết. Cơ Hầu
Yên, Lữ Hầu Tề cùng các tướng lỉnh khác chung cùng số phận.
Tử
Điền Phi khiếp vía, tưởng đâu phá được thành, hốt trọn ổ quân Văn Lang. Làm
thịt chúng cho hả giận. Nào hay đâu nhìn thấy cảnh tượng thê thảm. Quân binh
chết ngổn ngang, có số cháy ra than, ra tro, ra bụi. Chẳng lấy được gì ngoài
lớp tro bụi bay đi tìm Trời. Nhìn năm vạn quân còn lại bơ phờ xơ xác thương
vong đầy mình lê lếch thảm thương. Tử Điền Phi đành thu quân trở lại thọ tội
với Thống Soái.
Nói
về Thống Soái Khương Hoàng Nhân luôn luôn cho người bám sát theo dõi cuộc chiến
nghe chiếm được thành Đông Giao thời mừng rỡ. Chừng nghe lại thời 10 vạn quân
đã đi đời, 5 tướng đi tiêu Yên, Tề xóa sổ. Quân Văn Lang biến đi đâu mất, thời
kinh hồn bạc vía. Nhưng cũng ra oai ra lệnh. Đem Tử Điền Phi ra chém quách cho
rồi nhằm ren đe tướng sĩ. Các quan tướng khuyên can mãi Tữ Điền Phi mới thoát
được tội chết.
**************
PHẦN 12
Trời thu cao vót xanh xanh
Lá vàng rơi rụng đếm chân giặc thù
Gió thu vừa hận, vừa ru
À ơi non nước còn đâu yên lành
Quê hương tai họa thình lình
Giặc càn giặc phá lắm nghìn bi ai
Tiên Rồng nào dễ nuốt xơi
Chủ quyền còn đó muôn thời nghìn xưa
Dầu cho rau muối tương dưa
Trường kỳ kháng chiến giặc thua phen nầy.
Đây
nói về Hùng Cao Vương. Nhận lảnh thanh Hỏa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm, thống
lảnh 30 vạn quân trấn thủ.
1:
Bắc Giang Giao Châu.
2:
Lạc Giang Giao Châu.
3:
Kinh Giang Giao Châu.
4:
Giao Giao Minh Châu.
5:
Quí Linh Giao Châu.
Đại
quân lặng lẽ đi tới núi Vũ Khê. Thời đóng quân hạ trại, vì nơi đây là trục giao
thương của Châu phủ, lại thêm địa hình vô cùng phức tạp. Dù cho trăm vạn quân,
cũng khó mà thắng nỗi 30 vạn quân mai phục ở đây là nơi đầy bí mật, thuận lợi
cập nhật thông tin. Hộp bàn nghị sự kế sách chống giặc.
Các
quan tướng đang lên phương án đối địch thời có quân thám báo vào báo:
Bẩm Vương Gia quân Ân đã tràng qua Nam sông
Trường Giang như kiến. Nghe đâu trên dưới 60 vạn quân do Vi Tử Khải, Vi Tử Điển
dẩn đầu. Vi Tử Điển dẩn quân theo đường bộ. Vi Tử Khải tiến quân theo đường
thủy. Ước lượng 2.000 chiến thuyền lớn nhỏ trên dưới 30 vạn quân. Xuôi theo
sông Tử Giang tiến sâu vào nước ta. Có lẽ giặc sẽ vượt qua từ Dương Châu, tiến
đánh Lạc Giang Giao Châu rồi vượt qua Giao Giao Châu. Tiến đánh Quí Linh Giao
Châu. Rồi theo hướng thuận lợi sông Giao qua sông Lạc, tiến đánh Kinh Kinh Giao
Châu. Chiếm lấy Nam Kinh Xích Quỹ.
Hùng
Cao Lang nghe xong ngẩm nghỉ một hồi, rồi nhìn các quan các tướng nói:
Giặc ra quân với một lực lượng hùng hậu chưa
từng có trong lịch sử. Có thể nói giặc dốc toàn lực lượng xâm lược nước ta, ý
định của giặc đã quá rõ, quyết xóa sổ nước Văn Lang trở thành thuộc địa của
chúng. Trong trận chiến này hoặc sơ sót hoặc tính sai nước cờ là giặc Ân sẽ
đánh tới Kinh Đô Văn Lang rồi biến nước Văn Lang thành thuộc địa của chúng.
Lúc
các quan các tướng đang say sưa lên phương án chống giặc. Thời có quân thám báo
vào tâu:
Bẫm Vương Gia. Hơn 30 vạn quân Ân do Vi Tử
Điển thống lảnh, đang ồ ồ ạc ạc vượt qua Nam Trường Giang và lao thẳng về Bắc
Giang Giao Châu rồi vượt qua Kinh Giang Giao Châu vì địa hình Kinh Giang Giao
Châu rất phức tạp chưa phải là yếu huyệt của Bắc Giao Chỉ nên giặc sẽ bỏ qua
thành này, tiến đánh Xích Linh Giao Châu, Kinh Kinh Giao Châu và nuốt Nam Kinh
vào bụng.
Tin
khẩn cấp dồn dập, hết người nầy tới người khác, hết người nọ tới người kia:
Khẩn báo quân Ân, mỗi lúc một tiến sâu vào
đất Văn Lang và nuốt lần từng Châu từng Quận từng Huyện. Có những Quận, Huyện
binh lính không sợ chết lao vào giặc tử chiến. Những trận đánh không cân sức
cuối cùng đã bỏ mạng tại sa trường.
Thơ
rằng:
Khiếp cho con cháu Tiên Rồng
Chết cho non nước, sống còn về sau
Tinh thần chống giặc rất cao
Chết vì Tổ quốc biết bao oai hùng
Người chết thời chết một lần
Không già thời trẻ cuối cùng cũng đi
Sống đời nô lệ còn chi
Chết vì Tổ Quốc uy nghi cuộc đời.
Hùng
Cao Vương cùng các chiến sỉ nghe các Châu, Quận, Huyện lần lược chiến đấu đến
hơi thở cuối cùng, tất cả đều tử nạn trong trận chiến thời lấy làm kinh phục
nhưng cũng rất đau lòng, mãi mãi tự hào nòi giống Rồng Tiên.
Hùng
Cao Vương nói:
Tuy cái chết của các binh lính Quận Huyện.
Cái chết của sự liều lĩnh trứng chọi đá, cái chết không mấy kết quả, thiếu sỉ
mưu, nhưng không phải cái chết của sự vô ích mà là sự mở màng cho sự thắng lợi
về sau đó cũng là kế sách hay, làm cho quân giặc xem thường chúng ta, chúng
càng coi chúng ta không ra gì thời càng có lợi cho chúng ta, chúng càng lún sâu
vào kế bẩy của chúng ta. Lại nữa giặc đã tạo cho chúng một thứ vũ khí vô cùng
nguy hiểm cho ta, đó là thứ vũ khí hận thù, giặc càng chém giết dã man, càng
chà đạp lên thể xác con cháu Tiên Rồng đã ngã xuống, tàn phá quê hương non sông
Tổ Quốc chúng ta. Thời chúng đã tạo cho quân dân ta, một sức mạnh đoàn kết
triệu người như một, phực lên ngọn lửa hận thù ngút tận trời xanh, Lòng câm thù
giặc đến cực điểm, thời những trận đánh quyết tử càng khủng khiếp, tiêu diệt
thiêu rụi giặc Ân.
Khi
kế sách chống giặc đã bàn xong, Hùng Cao Vương liền ra lịnh:
Mai Đức Thọ nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng
quân điểm 3 vạn quân tức tốc tới Tử Dương Châu. Không là phải yểm trợ quân Tử
Dương Châu, mà là mai phục ở thung lũng Tử Thần. Chờ khi quân Ân đánh bại quân
Tử Dương rồi tiến quân qua khỏi eo Tử Thần, tiến sâu vào địa phận Lạc Giao
Châu. Giặc sẽ để lại một ít quân để canh giữ bảo vệ khúc sông nguy hiểm này.
1:
Tướng quân chọn 20 chiến thuyền giả làm thuyền giặc, đề cờ quân tiếp
viện.
2:
Tướng quân cho quân mai phục bao vây áp sát eo Tử Thần.
3: Những binh lính trên 20 chiến thuyền
giã làm thuyền giặc toàn là tay võ nghệ cao cường, khi thuyền xáp lá cà phải
thật sự mau lẹ ra tay nhanh chóng, đừng cho giặc bắn mật hiệu lên không, còn
tên nào vào lên bờ tẩu thoát, thời đã có binh lính mai phục tốm cổ, tiêu diệt
không để một tên sống sót, bảo toàn bí mật phục kích tuyệt đối.
4:
Xử dụng thuyền giặc làm thuyền của ta, còn thuyền của ta thời tìm nơi ẩn
núp kín đáo sâu vào kinh lạch, khi có hiệu lịnh thời xông ra mà tiêu diệt địch.
5:
Tướng quân cho quân lính đóng cọc trận giữa lòng sông dài ba bốn dặm,
cho quân phục kích dọc hai bên bờ sông bốn năm dặm, sự chửng bị phải thật khéo
léo bảo mật tuyệt đối. Phục kích chờ
đợi cho đến khi quân Ân thua trận kéo quân tháo chạy trở lại hoặc quân tiếp
viện của giặc sa vào cọc trận, thời chúng ta dốc toàn lực với tất cả lòng căm
hận trút xuống đầu chúng trả mối hận thù mà chúng đã hại nhân dân ta, rồi nói
nhỏ một hồi những điều cơ mật. Nhìn vẻ mặt đầy sát khí của tướng quân Mai Đức
Thọ cũng hiểu được phần nào. Có thể nói đây là một cuộc tử chiến một còn một
mất giữa ta và giặc.
Huỳnh Trung Phong nghe lịnh. Có thuộc hạ,
Tướng quân thống lảnh 10 vạn quân nhanh chóng tới gò Lạc Hồn, khúc sông Lạc
Cội, cách thành Lạc Giang Giao Châu 25 dặm theo hướng Tây Bắc, nơi đây chính là
vùng đất hiểm địa, khúc sông chết, địa phận rừng Âm U, dân địa phương ít ai đi
qua khúc sông này, hai bên bờ sông lau lách cây cối rậm rạp nên giặc hết sức
đề phòng vì vậy quân binh hết sức cẩn thận ngụy trang khéo léo, nhất là đừng
cho chim chóc sợ hãi bay loạn xạ.
1:
Tướng quân cho binh lính đóng cọc trận hai bên lòng sông, âm dưới mặt
nước ba tất, tức là một gan rưỡi tay (Thủy âm cọc trận).
2:
Cọc cách cọc 1 mét, dài dọc theo hai bên bờ sông đến sáu bảy dặm, từ bờ
trở ra cọc đóng rộng ra cở 20 mét và cuối cùng là đóng cọc đầy lòng sông âm
dưới mặt nước một tất rưỡi gần một gan tay dài đúng 200 mét chận đứng thuyền
giặc lại. Điều thuận lợi cho ta lúc này là vùng thượng nguồn đã có những trận
mưa lớn, nên nước khúc sông chết nầy càng thêm vấy đục, làm tăng thêm hiệu quả
thủy âm cọc trận của chúng ta. Thuyền giặc đi qua khúc sông này là ban ngày
nhưng theo tình hình chiến sự mà giặc đã lần lượt đi qua, luôn luôn đem đến
thắng lợi cho giặc, có thể nói là quá dễ dàng lòng kêu ngạo xem thường chúng
ta. Thời có lẽ thuyền giặc đi qua khúc sông chết nầy vào lúc trời vừa sáng tỏ,
thời coi như giặc không sợ gì nữa, sự cảnh giác đề phòng của giặc cũng đã giảm
bớt, thuyền cứ giữa dòng sông mà đi, chúng sẽ nối đuôi nhau dài bảy tám dặm.
3:
Tướng quân cho binh lính phục kích dọc theo hai bên bờ sông thưa thớt
ngụy trang khéo léo, còn đại binh phục kích cách bờ sông 200 mét kéo dài dọc
theo hai bên bờ sông chín mười dặm. Thấy thuyền giặc đã sa vào bẫy cọc trận
chưa vội tấn công, khi nào có hiệu lịnh pháo phóng lên cao thời tấn công. Những
bè chất đốt củi lau sậy tốc hành đẩy ra sông mồi sẵn chất dầu khi nào bè chất
đốt đã áp sát thuyền giặc, tức thời dùng tên lửa bắn vào tạo thành trận hỏa
công có một không hai trong lịch sử tiêu diệt quân xâm lược.
4:
Những chiến thuyền giặc còn sống sót, ráng chèo ngược dòng sông để rút
lui tẩu thoát, thời thuyền ta rược đuổi gần tới khúc sông Tử Dương eo Tử Thần
thời rút lui trở lại. Tuân lệnh.
Bùi Xuân Mẹo nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân điểm 3 vạn quân tới
huyện Lỗ An xã Tử Địa gò Mộ Ma, lợi dụng địa hình phức tạp, nơi đây toàn là
rừng còi đầy gai gốc lại có nhiều gò đồi liên kết, đây là con đường duy nhất
vượt qua Kinh Giao Châu, tiến đánh xích Linh giao Châu. Tướng quân cho quân
lính đào hầm ẩn núp ngụy trang ẩn mình dưới đất, để cho giặc đi qua không ngăn
cảng chi cả, giặc sẽ để lại một ít quân trấn giữ phục kích ở đây, làm trạm
thông tin liên lạc và cũng là nơi hiểm địa để chúng thối lui, chờ trời tối thời
bất ngờ dưới đất chui lên, chọn nhưng người võ công cao cường ra tay thần tốc
mau lẹ, bất ngờ phất thuốc mê vào bọn chúng, còn số không bị thuốc thời nhanh
như tia chớp tiêu diệt gọn sạch. Bảo vệ tuyệt đối bí mật của chúng ta, để lại
một ít tên, dụ dỗ khéo léo khai thác những thông tin cần thiết bí mật của
chúng. Khi đã nắm gọn thông tin ít nhất là 3 người khai giống nhau, liền cho
quân phục kích giăng bẫy mà con đường khi cần thiết rút lui chúng sẽ đi qua,
chờ cho chúng sa vào kế bẫy sa vào hào trận, thời dốc toàn lực xông ra tiêu
diệt chúng, trừng trị cái tội xâm lược tàn hại dân ta và cũng cho chúng biết thế
nào là sức mạnh uy linh của nòi giống Tiên Rồng. Tuân lệnh.
Cao Đình Luân nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng
quân thống lảnh 10 vạn quân mai phục tại rừng Lâm Nguy giáp ranh giữa Kinh
Giang Giao Châu và Xích Linh Giao Châu, nơi đây có 3 khu rừng như kiền ba chân,
rừng Ông Cọp, rừng Ông Beo và rừng Quỹ, nếu để giặc qua khỏi ba khu rừng này,
thời nguy cơ cho Xích Linh Giao Châu. Giặc muốn nuốt Nam Kinh Xích Quỹ thuận
lợi nhanh chóng, thời không có con đường nào tốt hơn là thông qua con đường này
vì thế giặc hết sức đề cao, cảnh giác, quan trọng hóa về ba khu rừng này. Trời
tối hoặc chiều tối giặc không những không đến gần, chớ đừng nói là giặc sẽ đi
qua, muốn đi qua giặc phải cho người thám thính, nếu phát hiện có mai phục,
thời giặc sẽ lập tức bao vây dùng hỏa công thiêu rụi ba khu rừng này, vừa tiêu
diệt chúng ta, vừa dọn đường sạch sẽ, xong đâu vào đó thời đại binh của giặc
mới đi qua, vì vậy hiểu được ý định của giặc thời ta mới thắng được giặc.
Vì vậy tướng quân phải hành sự theo phương
án như sau: Theo lộ trình của giặc tiến quân, thời giặc vượt qua Kinh Giang
Châu tới địa phận Xích Linh Giao Châu thời trời đã về chiều, khi giặc còn cách
ba khu rừng chừng 5 dặm thời hạ trại. Chờ ngày mai trời sáng tỏ giặc mới hành
sự theo kế sách tiến qua khu rừng này bằng phương án kết quả cao nhất, hiệu quả
an toàn, vừa diệt được quân ta mai phục, vừa tránh được hỏa công khi đại quân
băng qua khu rừng, vì vậy chúng ta hành động ra tay trước ý định của chúng, làm
cho chúng bất ngờ trở tay chẳng kịp. Khi giặc hạ trại nghỉ chân con mãng xà
khổng lồ có thể kéo dài đến chín mười dặm, vì vậy tướng quân tính toán cho thật
kỷ, cho quân lính đào hầm mai phục ẩn mình dưới đất nơi giặc dừng chân hạ trại
không xa, có thể nói gần sát chân địch, đây là chiến thuật đầy gan dạ của đội quân
cảm tử phục kích ở chỗ mà giặc không ngờ tới, sự phục kích ấy ở đoạn giữa và
khúc đuôi, đó là đội quân âm phủ còn đội quân dương gian thời phục kích gần đó
không xa, sự bày binh bố trận như sau:
1: Là quân âm phủ ẩn mình dưới đất.
2: Là quân dương gian phục kích trên mặt đất.
3: Là quân ẩn mình phục kích trong ba khu rừng.
Cách thức tấn công con mãng xà như sau: Ba
khu rừng trực diện như kiền ba chân, chờ trời tối di chuyển quân, áp sát phần
đầu, phần cổ con rắn, khi pháo hiệu tấn công đã nổi lên, thời đội quân thiết
giáp rừng Ông Cọp tấn công vào đầu con mãng xà, tiếp theo sau là kỵ binh, bộ
binh tấn công tới tấp dồn dập xuống đầu con mãng xà. Tiếp theo là hai cánh quân
tả hữu rừng Ông Beo, rừng Quỹ. Hai đội quân thiết giáp hai bên tả hữu đồng loạt
tấn công siết chặt cổ con rắn bằng sức mạnh đội quân thiết giáp, kỵ binh, bộ
binh như hai gọng kiềm siết chặt cổ chúng. Khi cuộc chiến xảy ra rầm trời, rầm
đất ở cổ và đầu con rắn, thời quân cảm tử âm phủ bất ngờ dưới đất chui lên, đội
quân dương gian ập tới. Quân Ân khúc đuôi, khúc giữa lúng túng chỗ nào cũng
thấy địch, đội quân âm phủ cảm tử banh xé nội tạng của giặc đứt từng khúc, đội
quân dương gian lấn thế ào tới mà xơi tiêu diệt chúng. Tuân lệnh.
**************
PHẦN 13
Lòng tham muốn nuốt Văn Lang
Trụ Vương dồn dập quân sang giựt gành
Giới ranh còn đó đành rành
Cớ sao Trụ lại đưa người lấn xâm
Tự xưng là Thánh là Tiên
Xem ra một lũ cuồng điên thú cầm
Tự xưng là Thánh là Thần
Mà đi xâm lược, giết người, ác gian
Luật trời nào để huênh hoang
Thay Trời trừng trị nát tan phen này
Xâm lược nào gặt cái hay
Gặt toàn quả báo đầu bay chiến trường.
Đây
nói về Vi Tử Điển là anh ruột của Ân Thọ Vương. Không được lên ngôi Hoàng Đế.
Vì vậy luôn luôn mơ mộng đến Thế Giới cho riêng mình và đây chính là cơ hội. Nên
nóng lòng muốn nuốt nước Văn Lang. Biến nước Văn Lang thành An Nam Quốc thuộc
địa nhà Ân. Thống lảnh 30 vạn quân ồ ồ ạc ạc lao thẳng về thành Bắc Giang Giao
Châu. Các Châu, Quận, Huyện lần lược bị con Mãng Xà thành tinh khỗng lồ, nuốt
vào bụng như nuốt một con kiến, con giun, con dế. Sự thắng lợi quá dể dàng ấy,
đã làm cho quân tướng giặc Ân, càng kiêu căng ngạo mạng, coi Quân lính Văn Lang
như cỏ rát. Dân chúng các Quận Huyện sợ quá trốn chui trốn nhủi, nhưng giặc nào
có tha, chúng bắt được liền đem ra làm những trò vui như mèo vồ chuột, như mỗ
gà xẽ lợn vô cùng thê thảm, thê thảm hơn là đàn bà con gái chúng tranh nhau vùi
hoa dập liễu, chúng vùi chán chơi chê hoa tơi nhị rữa rồi vứt xác, dẩm đạp lên
như đạp xác con giun, con dế, kiến xơi quạ mỗ. Có thằng như quỹ dữ ăn thịt trẻ
con còn khen ngon khen béo.
Nói
về thành Bắc Giang Giao Châu, nghe tin quân Ân xâm lược, với quy mô chưa từng
có trong lịch sử chiến tranh. Binh hùng tướng mạnh lên tới trên dưới 160 vạn
quân, con số khủng khiếp chia nhau tấn công đều khắp Tây Bắc Văn Lang, Bắc Văn
Lang, Đông Bắc Văn Lang. Bắc Văn Lang giặc tấn công hai mũi chính đường bộ và
đường thủy thời tức tốc một phần tích góp lương thực, một phần chuẩn bị lực
lượng binh lính chống giặc. Cho người đến Nam Kinh Xích Quỹ cầu quân tiếp viện,
đã phái người ra đi, đã bảy ngày sao không thấy trở lại, phần giặc Ân đại quân
duy chuyển gần tới, phủ chánh Tư Mã Nhân lo lắng vô cùng. Câu chuyện là thế
này.
Bố
Chánh Hầu Bưu là vị quan của huyện Hưng Bình là 1 trong 7 Quận Huyện Châu Phủ.
Bắc Giang Châu là Huyện có số dân đông nhất, đây là vị quan có tài ngoại giao
lại có võ nghệ cao cường, nên được phủ Chánh Tư Mã Nhân giao cho nhiệm vụ trọng
đại. Mang mật thư đến Nam Kinh Xích Quỹ, báo cáo tình hình giặc, cầu viện binh
mã hoặc có kế sách chỉ đạo của Hùng Cao Vương. Bố Thánh Hầu Bưu đã ra đi hơn
bảy ngày mà chưa thấy trở lại làm cho phủ Chánh Tử Mã Nhân đứng ngồi không yên,
lại thêm giặc Ân mỗi lúc một tới gần, không còn cách nào khác hơn là tự mình
giải quyết sự vụ, sự việc.
Nói
về bố Chánh Hầu Bưu, ngựa đang phi vùn vụt, bỗng thấy ba người chận lại, nhìn
cách ăn mặt khác thường, không phải dân địa phương, thời biết đó là ba tên sát
thủ giặc Ân. Hầu Bưu lấy lại bình tỉnh rút kiếm chém tới phi ngựa vụt qua nào
ngờ ánh kiếm của ba tên giặc chớp lên, tức thời cái đầu của Hầu Bưu bay đi lông
lốc.
Chúng
lục lạo tìm kiếm trong người Hầu Bưu thấy có mật thư liền nói:
Chủ soái quả đoán không sai.
Rồi
phi thân mất dạng. Nói về 30 vạn quân do Vi Tử Điển làm thống soái, thống lảnh
các trấn chư hầu lớn, nhỏ như. Trâu, Thái, Diệp, Tào, Tống, Trịnh còn hơn 15
dặm thời tới thành Bắc Giang Giao Châu thời cho 30 vạn quân dừng lại, thuộc
Huyện Châu Dương đồng cỏ mênh mông, cảnh quang thống thoáng đúng là nơi lý
tưởng cho bộ chỉ huy đóng ở.
Vi
Tử Điển nói:
Chúng ta đã tiến sâu vào đất Văn Lang hơn 60
dặm, các Quận, Huyện rơi vào tay ta cũng nhiều và chỉ còn 15 dặm nữa là tới
Bắc Giang Giao Châu, việc đầu tiên là tìm ra tiên phong chủ soái thống lảnh đại
binh đánh chiếm các thành trọng yếu tới chiếm lỉnh Kinh Đô Xích Quỹ hoàn thành
giai đoạn một.
Vi
Tử Điển nghe danh Vũ Tử Như từ lâu, văn võ song toàn thông kim bác cỗ, cùng học
một thầy với Triệu Công Tiển tại núi La Bảo, Động Ác Xà pháp thuật cao cường,
là người có thể thống lảnh đạo quân làm nên nghiệp lớn.
Vi
Tử Điển liền ra lịnh:
Vũ Tử Như nghe lịnh. Có thuộc hạ. Ta phong
cho tướng quân làm chủ soái. Thống lảnh 20 vạn quân, các trấn chư hầu Thái,
Diệp, Tào, Tống làm tiên phong đánh chiếm các Châu Thành trọng yếu huyết mạch
giao thương, Giao Chỉ.
1:
Bắc Giang Giao Châu
2: Xích Linh Giao Châu
3: Kinh Kinh Giao Châu
4: Nam Kinh Xích Quỹ.
Tuân
lệnh.
Hai
mươi vạn quân do Vũ Tử Như lảnh đạo, khí thế dậy non dậy núi.
Thành
Bắc Giang là thành sơ sài hơn hết trong các thành ở Bắc Văn Lang, binh lính tập
hợp các Quận, Huyện chỉ hơn 3 nghìn người toàn là binh lính ô hộp, chưa từng
tập trận, nên kinh nghiệm chiến đấu vô cùng non nớt, binh lính đứng trên thành
nhìn xuống thấy quân Ân đông như kiến, như 1 con mãng xà dài thăm thẳm uống
lượng lao đi. Người, ngựa, xe, cộ, gươm, đao, giáo, mác rợp trời, rợp đất khói
bụi mịt mù lao thẳng về thành Bắc Giang Giao Châu thời kinh hoàng đến bủn rủn
tay chân.
Phủ
Chánh Tư Mã Nhân nhìn thấy tinh thần anh em binh lính như thế thời thở dài nói:
Hỡi anh em binh lính, giặc đã đến nhà ta
thời ta không giết giặc, giặc cũng sẽ giết ta, chúng ta là con cháu nhà Trời,
hai đấng Tiên Rồng, thời sợ gì cái chết, sống thời bảo vệ non sông Tổ Quốc,
chết thời về Trời hoặc đầu thai làm người trở lại hoặc làm anh linh Hồn Thiêng sông
núi có chi là đáng sợ. Đây là lúc chúng ta xả thân vì non sông Tổ Quốc, đền đáp
công ơn nước nhà, cũng là trả thù giặc sát hại đồng bào anh em ta. Tiến lên
tiêu diệt bầy Lang Sói, trả mối hận thù cho những người đã ngã xuống tiến lên,
tiến lên.
Lời
kêu gọi đầy chính nghĩa của phủ Chánh Tư Mã Nhân như một luồng thuốc Tiên thấm
sâu vào tâm hồn chiến sĩ, bừng lên ngọn lửa anh hùng, ngọn lửa tiêu diệt quân
thù bảo vệ non sông Tổ Quốc.
Hơn
3 nghìn binh lính đồng hô vang khẩu hiệu:
Chúng ta vì non sông Tổ Quốc mà tử chiến.
Chúng ta vì đồng bào thiên hạ anh em mà tử chiến. Chúng ta theo gót cha ông
đuổi ngoại xâm tử chiến.
Nói
về 5 vạn quân tiên phong của giặc Ân do tướng soái Đề Cốt Ma dẫn đầu, khi cách
thành Bắc Giang Giao Châu nữa dặm thời tỏa ra bao vây lớp trong, lớp ngoài kêu
gọi binh lính thành Giang Châu đầu hàng, Trả lời giặc là những mũi tên bắn
xuống. Đề Cốt Ma nỗi nóng ra lệnh tấn công. Thế là:
Thế là máu đổ đầu rơi
Giặc tràn lớp lớp ôi thôi còn gì
Ba nghìn quân lính ra đi
Chìm trong binh lửa còn chi cuộc đời
Giặc Ân người ngựa rợp trời
Gái trai già trẻ ôi thời thảm thê
Giặc ân khoái chí hả hê
Lục sùng châu báu ngón nghề từ lâu
Tay vơ tay vét túi sâu
Bò, Dê, Trâu Ngựa chúng đâu bỏ thừa
Trẻ con trong bụng càng ưa
Linh đơn diệu dụng còn thua món này
Trời ơi là hỡi ông trời
Yêu tinh quỹ dữ hay loài ác ma
Ăn xương nuốt máu người ta
Đất sầu trời thảm tuông ra hận thù
Hồn linh tử sỉ kia rồi
Căm thù quân giặc chẳng thời chịu tan
Giặc Ân thắng trận huênh hoang
Quân Nam con cóc chẳng hơn con gà
Đồng bào chúng đập chúng chà
Chúng gào chúng thét giống loài kênh kênh
Chúng rằng Nam Quốc sấm rền
Chẳng qua ếch nhái oàng ênh cầu Trời
Ở đời mấy kẻ hiểu đời
Đã loài xâm lược để rồi mà xem
Rồng Tiên nào để giặc yên
Chờ xem lũ giặc mấy tên sống còn.
Giặc
Ân phá thành Bắc Giang Giao Châu như phá u gò mối, chiếm thành dễ như lấy đồ
trong túi, chẳng tiêu hao binh lính là mấy. Hết chiến thắng này tới chiến thắng
khác, hết thành công nọ tới thành công kia. Càng đi sâu vào đất Văn Lang, chúng
luôn luôn gặt hái bao điều thuận lợi, càng lúc càng coi thường quân Văn Lang.
**************
PHẦN 14
Nói
về Kinh Giao Châu, địa hình vô cùng phức tạp, theo kế sách của giặc là không
cần đánh thành Kinh Giao Châu. Tiến đánh Xích Linh Giao Châu, thời một số các
Châu, Quận, Huyện tự đầu hàng. Giặc chỉ cần dọn sạch đường tiến, cho quân bảo
vệ con đường lui, chiếm lỉnh các nơi trọng yếu là thượng sách và cứ thế tiến
sâu vào đất Văn Lang, vì thế giặc bỏ qua Kinh Giao Châu tiến đánh Xích Linh
Giao Châu, giặc muốn thôn tính thành Xích Linh Giao Châu một cách thuận lợi
phải đi theo đường tắc, chỉ cần qua khỏi đồi gò Mộ Ma và rừng Lâm Nguy thời đã
coi như 80% thuận lợi.
Nói
về Kinh Giao Châu địa phận phức tạp đất đai rộng lớn, thành trì kiên cố có thêm
12 Quận, Huyện nên số binh lính gấp đôi số binh lính Bắc Giang Giao Châu, nhân
tài vì thế mà nhiều hơn. Vị Đại Nhân Châu phủ thành này là Trung Đại tên thường
gọi là Trung Đại Nhân, có 3 người con 2 gái 1 trai, gái thời đẹp như Tiên Nga
gián thế, trai thời khôi ngô tuấn tú phi phàm.
Ngọc
Linh Châu là chị cả, Trung Hoài là em trai kế, Ngọc Thiên Hương là cô gái út.
Khi Đại Kim Châu phu nhân sinh con gái út, thời hương thơm nỗi lên khắp nhà ai
nấy cũng lấy làm kinh ngạc, cô út càng lớn càng xinh dẹp hơn cả cô chị lại có
tài học đâu nhớ đấy, khi cô lên chín tuổi không có thầy nào dạy cô nổi nữa.
Trung Đại Nhân định gởi cô vào Kinh Đô Văn Lang để học. Một hôm cô đang chơi
ngoài vườn hoa cây cảnh, bỗng nỗi lên một trận gió lạ cuốn cô bay đâu mất làm
cả nhà ai nấy cũng đều sửng sốt, đau xót vừa nhớ, vừa thương, đến nay đã hơn 10
năm tính ra cô cũng đã 19-20 tuổi rồi.
Đây
nói về Ngọc Thiên Hương đang chơi ở vườn cây cảnh, cô đang săm soi những cành
hoa xinh đẹp, bỗng trận gió lạ cuốn cô lên mây. 5 vị Tiên Cô chấp tay hành lễ
nói:
Thưa Cung Chủ, Cung Chủ hãy theo chúng nữ về
trời gặp Vương Mẫu Nương Nương.
Tức
thời nắm lấy tay Ngọc Thiên Hương đằng vân giá vũ bay đi như tia chớp, không
bao lâu thời tới Cung Vương Mẫu, Ngọc Thiên Hương nhìn thấy cảnh giới nơi đây,
khác xa cảnh giới phàm trần. Lầu đài cung điện tráng lệ nơi đây, cấu trúc xây
dựng toàn bằng vàng, bạc, kim cương, trân châu, pha lê, xà cừ, hổ phách, trang
nghiêm, xinh đẹp lộng lẫy. Cô được các Tiên nữ đưa đi qua nhiều cung điện. Mỗi
cung điện hoa văn, điêu khắc, chạm trỗ khác nhau, tinh vi có hồn như vật sống.
Cô nào có biết những đồ trang trí toàn là vật chí bảo. Bảo bối của Vương Mẫu
cung. Không bao lâu cô được các Tiên Nữ đưa đến một cung Điện vô cùng sang
trọng lộng lẫy đến lóa cả mắt. Cô nhìn thấy Vương Mẫu ngồi trên tòa châu báu uy
nghi rực rỡ vô cùng xinh đẹp tuổi độ khoảng 30. Cô nào có biết Vương Mẫu Nương
Nương tuổi rất cao có đến hàng triệu triệu năm.
Vương
Mẫu Nương Nương nhìn Ngọc Thiên Hương nói:
Khổ cho con quá.
Ngọc
Thiên Hương nhìn Vương Mẫu sao thấy quen quá thân thiết như mẹ đẻ ra mình. Liền
quỳ xuống Lễ Lạy. Nhìn thấy Ngọc Thiên Hương tâm linh minh mẩn sáng suốc liền
khen:
Tuy con mang xác phàm đầy ô trược, nằm trong
ngục sanh tử chín tháng mười ngày. Mà Linh hồn con vẫn minh mẫn sáng suốt vô
cùng âu đó cũng là nhờ con tu luyện hàng triệu năm.
Vương
Mẫu quay sang Ngũ Linh Tiên Cơ nói:
Các con dẫn cung chủ đến Cung Kỳ Hoa truyền
dạy Pháp thuật nhanh chóng. Để Cung Nữ trở về trần thế giúp Ngọc Tinh Tử. Trị
Quốc an dân lập công với Cội Nguồn lên ngôi Thánh Mẫu.
Ngũ
Linh Tiên Cô vâng dạ liền dẫn Ngọc Thiên Hương đến Cung Kỳ Hoa. Ngọc Thiên
Hương nhận thấy nơi đây sao quen thuộc đối với mình, tần ngần suy nghỉ. Năm vị
Tiên Cô giật mình hốt hoãng, Cung Chủ quả thật lợi hại. Sợ Ngọc Thiên Hương phá
vở màng u minh nhớ lại Tiền Thân của mình thì hỏng mất, làm hỏng Thiên Cơ của
trời đất. Liền hóa phép không cho Nhọc Thiên Hương nghỉ tới nữa. Tức tốc truyền
dạy Pháp thuật, kiếm thuật, Đạo Thuật, Nhơn Luân Hiếu Nghĩa, phép tắc nghi Lễ
Vương Cung. Từ khi cô về Trời ở Cung Kỳ Hoa, Cô nhìn thấy tòa bảo tháp bảy tần.
Hào quang sáng chóa, có các Tiên Cô thay nhau canh giữ. Vương Mẫu cấm không cho
Cô đến gần. Cô nghe nói trong Bảo Tháp có vị Cung Chủ đang ngủ.
Ngọc
Thiên Hương chăm chú nhìn tòa Bảo Tháp suy nghỉ: Ở Thiên đàng mà cũng có nhiều
điều bí ẩn. Thời có Tiên Nữ đến thưa rằng:
Thưa Cung Chủ, Vương Mẫu cho gọi người.
Tức
thời Ngọc Thiên Hương đến Cung Vương Mẫu để nghe truyền chỉ. Thấy Ngọc Thiên
Hương vào Vương Mẫu nói:
Con càng lớn càng giống lắm, chỉ khác nhau ở
xác phàm và xác Tiên mà thôi.
Ngọc
Thiên Hương nghe Vương Mẫu nói thời không hiểu chi cả. Vương Mẫu nói:
Con đã xa gia đình hơn 10 năm, cha con sắp
lâm đại nạn, con mau về trần thế cứu cha con để không kịp.
Ngọc
Thiên Hương nói:
Con ở đây mới hơn có 3 ngày sao Vương Mẫu
nói là con đã xa gia đình tới 10 năm.
Vương
Mẫu nói:
Đây là cõi thiên đàng đương nhiên phải khác
chốn nhân gian, con vốn có duyên với Ngọc Tinh Tử, sau này làm Mẫu Nghi thiên
hạ, an hưởng thái bình sau cơn binh đao máu lửa.
Vương
Mẫu liền trao cho chiếc áo giáp Tiên để chống lại đao, kiếm, một tấm lưới, một
con Thần Ưng, một thanh bảo kiếm.
Vương
Mẫu đưa viên thuốc và nói:
Con hãy uốn viên thuốc này vào sẽ quên hết
chuyện ở đây, không bao lâu mản số trần gian Ngũ Tiên đón rước con về Thượng
giới.
Nghe
lời Vương Mẫu Ngọc Thiên Hương liền nuốt viên thuốc vào bụng thời không còn
biết chi nữa, khi Ngọc Thiên Hương tỉnh dậy thời thấy mình đang ở động Phong
Lan thuộc dãy núi Hùng Phong Sơn, bên mình là một bà già tóc bạc.
Ngọc
Hương hỏi:
Bà là ai?
Bà
lão nói:
Con quên hết rồi sao? Ta là sư phụ của con
đây mà.
Rồi
bà đọc lại các câu thần chú xử dụng bảo bối cùng bầu hồ lô đựng linh đơn giải
độc với những điều căn dặn. Tiếng huýt sáo của bà vang lên thời Bạch Long Thần
Mã bay đến. Bà hối thúc Ngọc Thiên Hương xuống núi cứu cha ở huyện Hàm Giang,
một huyện 12 quận, huyện Kinh Giang Châu, thuộc địa phận của cha quản lý. Ngọc
Thiên Hương liền từ biệt sư phụ cởi bạch Long Thần Mã bay đi xuống núi, bà già
liền rùng mình hiện lại nàng tiên xinh đẹp nhắm hướng trời xanh bay đi mất hút.
Đây
nói về Diệp Lang là Cháu Đức Tôn của Hùng Tiên Lang Quốc Vương, con lớn của
Điền Lang, nhận lảnh Địa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm, thống lảnh 10 vạn quân tiếp
ứng quân Tây Thục Vương, có 3 nhiệm vụ chính,
1: Là chận đường tiếp viện, quân rút lui của
giặc.
2: Là quân cứu viện, tiếp viện khi cần thiết.
3: Là bao vây khi thế giặc bị xé nhỏ.
Diệp
Lang sau khi hạ trại ẩn mình xong, liền bí mật một mình dò la thám thính tình
hình của giặc cũng như của ta, để mà tìm cách đối phó và đã biết được ba anh em
nhà Tây Thục đánh cho giặc Ân một trận tơi bời. Đang trên đường tiếp tục thăm
dò tình hình quân giặc, bỗng thấy một bóng trắng lao tới nhanh như chớp dưới
ánh nắng hoàng hôn yếu ớt sắp lặng. Diệp Lang giật mình tưởng đâu giặc đã phát
hiện ra mình, liền rút kiếm tấn công chém tới.
Bổng
nghe tiếng thanh tao như ngọc quát:
Đạo tặc hổn láo.
Diệp
Lang giật mình thâu kiếm lại:
Té ra là cô.
Diệp
Lang biết lở lời liền nín thinh. Người con gái đẹp như Tiên Giáng Trần trợn mắt
quát:
Người là ai? Ta làm gì có quen với người
vốn không oán, không thù sao ngươi lại ra tay độc ác định giết ta.
Diệp
Lang nói:
Xin lỗi cô nương tại hạ hiểu lầm tưởng đâu
là giặc.
Nàng
bỉm môi:
Ngươi giặc thì có.
Thấy
chàng thanh niên cứ nhìn mình chăm chăm. Ngọc Thiên Hương thẹn quá quát lớn:
Tránh ra sao ngươi lại cản đường ta.
Lấy
lại trầm tỉnh Diệp Lang hỏi:
Cô từ đâu tới? Cô có biết lúc này là lúc nào
không? Lúc đang dầu sôi lửa bỏng, những trận đánh liên tục xảy ra.
Ngọc
Thiên Hương bỉm môi nói:
Ai đánh ai chứ, chỉ có ngươi đánh ta thì có.
Diệp
Lang ngớ người, đứng thừ người ra nhìn cô gái một hồi, chẳng nói chẳng rằng vội
vả bỏ đi. Ngọc Thiên Hương nỗi cáu thúc ngựa phi tới chận đầu, bỉm môi trợn mắt
nói:
Ngươi khinh ta phải không? Ta hỏi sao ngươi
không nói.
Diệp
Lang nghỉ trong bụng đúng là oan gia rồi, thấy điệu bộ ngây thơ của nàng, khác
gì trẻ con liền phì cười, thấy nàng nỗi cáu.
Diệp
Lang xuống giọng thi lễ rồi hỏi:
Thật ra cô là ai? Từ đâu tới?
Ngọc
Thiên Hương thấy Diệp Lang lễ phép với mình thời hết giận ngay. Ngọc Thiên
Hương thấy chàng trai trước mặt mình, không những bảnh trai khôi ngô tuấn tú,
mà còn điền đạm oai phong hơn người, liền chấp tay thi lễ nói:
Tiện nữ là con của Vương phủ Trung Đại Nhân,
tên là Ngọc Thiên Hương.
Diệp
Lang như không tin ở lỗ tai mình, liền hỏi lại:
Cô là con gái của Trung Đại Nhân phủ gia à?
Thấy
cô gái có vẻ mặt giận dữ mặt đằng đằng sát khí, biết là cô đã hiểu lầm lời nói
của mình, liền nói tiếp:
Nghe quân thám báo cho biết là cha cô sắp tử
chiến với giặc Ân, có lẽ giờ này đã đánh với giặc Ân rồi sống chết ra sao chưa
rõ.
Ngọc
Thiên Hương nghe Diệp Lang nói thế giật mình hốt hoảng la lớn:
Ái chà.
Vội
vả thúc ngựa bay đi vùn vụt. Diệp Lang giật mình nói:
Thần Mã.
Thấy
nhiều cử chỉ lạ của cô gái, Diệp Lang liền huýt sáo, tức thời Thần Mã Bạch Long
Câu xuất hiện, Diệp Lang phóng lên ngựa bay theo sau, tiếng sét ái tình đã nỗ
từ lúc ấy.
Nàng là ai, sao nàng xinh đẹp quá
Làm hồn ta, say đắm ngất ngay
Là Tiên Nữ, hay nằm mộng ta đây
Ôi cô gái từ đâu nàng lại đến
Sóng lòng ta đã cuồng dân triều mến
Vần trăng tròn, rực rở vạn mùa xuân
Ta đã yêu và ta đã nhớ thương
Nàng là ai, sao ta mãi vấn vương.
Đây
nói về châu phủ Đại Nhân dẩn hơn 6 nghìn quân, mai phục Hàm Giang, tuy biết
mình quân ít, tướng yếu không thể đối đầu lại đại binh của giặc. Nhưng không lẽ
để cho giặc tự tung, tự tác giết hại đồng bào, tàn sát dân lành, dày xéo quê
hương. Thôi thà chết đi còn hơn, sống mà cúi đầu làm nô lệ, thời sống để mà làm
gì.
Nghe
tin Bắc Giang Giao Châu, binh lính vì non sông Tổ quốc đi vào tử nạn, không
chút sợ sệt, lòng đau xót bùi ngùi xúc động. Ý nguyện hy sinh cho non sông Tổ
Quốc trả thù cho anh em con cháu Tiên Rồng đã ngã xuống liền quyết tâm tử chiến
đến cùng với giặc. Nhưng giặc quá mạnh, ta đánh sao đây cho có hiệu quả, làm
sao giảm đi sức mạnh của giặc. Liền nghỉ ra một phương án là đánh vào giữa khúc
đuôi của con rắn có hàng trăm, hàng nghìn xe vận chuyển lương thực. Nếu thành
công thời coi như lập được đại công gốp phần đánh đuổi quân xâm lược.
Ba
cha con Trung Đại Nhân nghỉ đến cảnh tiêu diệt giặc liền nổi lên bao cảm khoái,
chia nhau mỗi người hơn 2 nghìn quân phục kích gần sông Hàm Tử nơi giặc đi qua.
Chờ cho 20 vạn quân Ân lần lượt qua sông Hàm Giang khúc sông Hàm Tử, khi đầu
con mãng xà đã xa hơn 10 dặm. Còn khúc đuôi con mãng xà kéo theo hàng nghìn xe
lương thực, gần một nữa đã qua sông, hơn một nữa chưa qua. Đây là cơ hội tiêu
diệt giặc Ân, dù địch còn nhiều hơn ta gấp đôi vẩn cứ đánh. Lúc bấy giờ cơn mưa
đã bắt đầu nhẹ hột, mặt trời cũng đã bắt đầu dần dần xuống núi. Tiếng tù tử
chiến đã nỗi lên, tức thời cách Hàm Tử không xa, từ mé sông các lùm cây bụi
rậm, chui ra lúc nhúc ào ào lao tới chém giết giặc Ân như vũ bão. Tinh thần
quyết tử lại thêm chủ động, quân giặc bất ngờ bị quân ta tấn công xối xả, quân
Ân ngã gục thây nằm chật đất, tên bay vun vút gươm giáo mịt mù.
Thơ
rằng:
Cảm khoái nào hơn giết giặc ân
Giữ gìn tất đất của cha ông
Xả thân vì nước Hồn hiển Thánh
Trả thù, rửa hận nước non sông
Bình sanh dốc hết, đầu giặc rụng
Gươm giáo loáng loang xác giặc chồng
Hào khí phương Nam, Rồng mọc cánh
Cuồng phong nỗi dậy, khắp non sông.
Trung
Hoài Nghĩa thét lớn:
Lũ ác ôn ngoại xâm chết nầy.
Ầm
ầm ầm tướng giặc trúng liền ba chưởng ngã ngựa chết tươi. Trung Hoài Nghĩa như
cọp xông vào đàn dê quật ngã binh lính Ân rầm rầm.
Bỗng
nghe tiếng cười khanh khách nỗi lên, thì ra đó là tiếng cười của tướng giặc:
Con cái nhà ai mà đẹp đến thế, để ta bắt
sống làm món đồ chơi.
Tướng
giặc có vẽ xem thường người con gái trước mặt, đó cũng là yếu điểm của những
tay háo sắc. Tướng giặc phi ngựa tới định quật ngả Ngọc Linh Châu bắt sống.
Ngọc
Linh Châu quát lanh lảnh:
Loài ác tặc ngoại xâm lũ các ngươi phải
chết.
Ngựa,
người liền vút tới với chiêu Vô Ảnh Kiếm uy lực vô cùng vu vu nghe rợn người
chém xuống đầu tướng giặc nhanh như tia chớp.
Tướng
giặc thốt lên:
Ấy chà, coi đẹp thế mà cũng có ngón nghề dữ
tợn.
Tướng
giặc liền đưa giáo lên chống đở, bất ngờ Ngọc Linh Châu biến mất. Từ chiêu Vô Ảnh
Kiếm biến thành chiêu Vô Ảnh Sát Thủ. Tướng giặc kinh hoàng định bỏ chạy, nhưng
đả muộn một tiếng rú thê thảm, tướng giặc đã trúng liền một kiếm sau đó là
cái đầu bay đi lông lốc.
Ngọc
Linh Châu như con Phụng Hoàng xông vào đàn quạ đôi song kiếm quét vào quân thù
như sấm sét, quân Ân thi nhau ngã gục.
Thơ
rằng:
Giặc vừa thấy một bóng hồng chơm chớp
Thời đầu bay lớp lớp xác thây phơi
Tướng nước Nam hay là tướng nhà Trời
Giặc kinh hoảng trước bóng hồng vun vút
Như Phụng Hoàng, lùa vịt để mà xơi.
Bổng
nghe tiếng quát như sấm:
Chết nầy.
Thanh
Lao Đao trên tay Trung Đại Nhân, bỗng hóa ra 5 Thanh Đao với chiêu Ngũ Ảnh Đoạt
Hồn tấn công nhanh như chớp. Thượng trung hạ, đầu mình và tứ chi, tướng giặc
hoa cả mắt trúng liền một đao bỏ mạng. Quân lính Kinh Giao Châu thấy ba tướng
giặc bỏ mạng, liền hăng máu xông lên như bão lốc người chém giết giặc Ân kẻ đốt
phá lương thực, giặc Ân hơn 1 vạn quân đã đi tiêu hơn hai phần ba, chỉ còn 3
nghìn quân nữa sắp bị tiêu diệt đến nơi, hàng nghìn xe lương thực sắp bị phá vở
thiêu rụi.
Có
bài thơ rằng:
Rồng Tiên chính nghĩa mạnh vô biên
Chết sống kể chi giữa trận tiền
Dòng máu Lạc Hồng đâu sợ chết
Lao vào tử chiến, thật kinh thiên
Giặc Ân khiếp vía, tinh thần ấy
Truyền thống hùng anh, khắp mọi miền
Quốc Đạo anh linh, rền kim cỗ
Toàn dân quyết tử dậy cương biên.
Quân
lính Kinh Giao Châu đang lúc hăng máu, say sưa tiêu diệt giặc Ân đốt phá lương
thực, thời nghe quân reo dậy đất ngựa hí vang trời, thì ra quân Ân gần khúc
đuôi đội quân chủ lực đã bọc bao vây trở lại bao vây trùng trùng lớp lớp. Chỉ
còn hơn 2 nghìn quân giặc Ân sắp đi chầu âm phủ, thấy quân tiếp viện đến bao
vây binh lính Kinh Châu, liền phản công quyết liệt. Giặc Ân trong đánh ra ngoài
đánh vô, kẹp quân Kinh Giao Châu ở giữa. Bốn nghìn quân Kinh Giao Châu còn lại
đụng độ với quân chủ lực giặc Ân nháy mắt tất cả đều bỏ mạng lìa đời.
Thơ
rằng:
Nào có sợ trước lủ bầy cáo, sói
Chí anh hùng, xông tới tiến tiến lên
Dù ngã xuống, nhưng hồn linh sống mãi
Diệt quân thù nào để sót một tên
Kìa cha ông đang tiếp hồn tử sĩ
Về Cội Nguồn về Tiên giới Thánh Tiên
Hỡi Hồn Thiên, hỡi anh linh trung dũng
Người ngã rồi, nhưng hồn vẫn đứng lên
Như núi cao, như hùng sơn sừng sửng
Mãi muôn đời bao thế hệ không quên.
Thấy
cha và anh sắp bị giặc giết Linh Châu lao tới cứu cha và anh trước mưa tên, bão
giáo tên đã bắn trúng cô xối xả, cô từ từ ngã xuống gục nơi chiến trường.
Có
bài thơ rằng:
Giặc Ân xâm lược nước nhà
Làm thân con gái cũng ra chiến trường
Tung hoành ngan dọc thư hùng
Đầu giặc rụng xuống như sung chín mùi
Tướng giặc khiếp vía rụng rời
Trời nam phận gái cũng thời liệt hoanh
Cỡi mây đạp gió xông lên
Trước bầy quỹ dữ lung linh sáng ngời
Tuy nàng đã ngã xuống rồi
Nhưng bầy quỹ dữ vẫn thời khiếp kinh.
Ngọc
Linh Châu trúng tên nhiều quá, biết mình khó sống thét lên:
Cha, anh con đi trước đây.
Nói
xong Linh Châu nhắm mắt lìa đời, hồn bay về trời chầu Tiên Mẫu. Hai Cha, Con
Trung Nhân thấy Linh Châu đã ra đi, thời dùng hết thần lực vào cánh tay Đao,
Kiếm đây là đoàn cuối cùng giết giặc theo Linh Châu sang bên kia thế giới về
chầu Quốc Tổ. Với đường Đao cuối cùng cuồng phong nỗi dậy cát chạy, đá bay một
vùng Đao pháp rộng lớn cuồn cuộn tuông ra trùm xuống đầu quân giặc.
Tướng
soái giặc Ân thấy thế thét lớn:
Bắn.
Tức
thời hàng trăm mũi tên đồng tên sắt bắn vào vùng Đao Kiếm tiêu diệt hai cha,
con Trung Đại Nhân. Trước phút lâm nguy nghìn cân treo sợi tóc, bỗng hai bóng
trắng xuất hiện với hai luồng kình lực một cương một nhu, đẩy hàng trăm mũi tên
lệch xong một bên, đùng đùng ầm ầm quân Ân ngã gục mấy chục tên.
Hai
cha con Trung Đại Nhân thần lực cạn kiệt loạn choạng sắp ngã, liền bên tai có
tiếng người nói:
Mau sang ngựa.
Tức
thời 2 luồng kình lực hút hai cha con Trung Đại Nhân bay lên không. Nói thì hơi
lâu, còn việc xảy ra thời nhanh như chớp, quân giặc chưa kịp trở tay thời hai
bóng trắng đã mất hút trước sự ngơ ngác của giặc, hai cha con Trung Đại Nhân
không cánh mà bay.
Nói
về hai cha con Trung Đại Nhân sắp kề cái chết, bỗng có người đến cứu không rõ
là ai mà có võ công thần kỳ đến thế. Lần đầu tiên chứng kiến cảnh ngựa bay,
ngựa phi ngày nghìn dặm đã là hiếm thấy, tuy trời đã tối nhưng hai cha con
Trung Đại Nhân cũng cảm nhận được núi, rừng trôi qua vùn vụt ngựa đang bay. Hai
cha con Trung Đại Nhân xưa nay chỉ nghe kể, nhưng hiện giờ thời tai nghe, mắt
thấy, tay sờ đụng không thể chuyện kể hay chiêm bao gì cả mà là sự thật.
Khi
ngựa dừng chân, thời thấy 5 vị tướng quân ra mắt cung kính thi lễ nói:
Đức Tôn Vương đi quá lâu, làm cho các thuộc
hạ quan tướng lo lắng.
Hai
cha con Trung Đại Nhân nghe 5 vị tướng quân thi lễ trong 2 vị cứu mình, một vị
là Đích Tôn Vương Tử, còn vị kia không rõ là ai thời vô cùng kinh hãi, liền quỳ
lạy:
Xin tha mạng cho tội thất lễ.
Diệp
Lang đỡ hai cha con Trung Đại Nhân dậy nói:
Thật đáng khen cho tấm lòng vì dân vì nước
của Đại Nhân. Vì nước quên thân, vì dân chiến đấu, chiến đấu anh dũng, chiến
đấu đến hơi thở cuối cùng, ai nhìn thấy cũng sinh tâm kính phục.
Ngọc
Thiên Hương thời đờ người ra ấp a ấp ún Diệp Lang thấy vậy phì cười. Hai cha
con Trung Đại Nhân lại tiếp tục quỳ lạy ơn cứu mạng.
Diệp
Lang lại đỡ dậy nói:
Người cứu hai cha con Đại Nhân không phải là
bổn Vương, mà là cô con gái út của Đại Nhân. Ngọc Thiên Hương.
Diệp
Lang chỉ người con gái đã cứu ông thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Ông như người
trong mơ ngơ ngát. Ngọc Thiên Hương nhào tới ôm lấy cha:
Cha con xuống núi hơi trể, thiếu chút nửa
Cha và Anh chầu Trời, con thật có lỗi xin Cha thứ tội cho.
Vuốt
chòm râu của Cha, Ngọc Thiên Hương nói:
Cha đã già đi nhiều.
Ông
la lớn:
Đúng là con rồi. Đúng là Ngọc Hương của Cha
rồi.
Ông
ôm Ngọc Thiên Hương mà khóc:
Cha nhớ con lắm, con đi đâu mà lâu thế đã
hơn 10 năm rồi còn gì.
Nghe
hai cha con Trung Đại Nhân nói chuyện, Diệp Lang đã hiểu ra tấc cả, thì ra là
thế. Đúng là nàng không hay biết gì, có lẽ nàng vừa mới xuống núi, lòng bổng
dâng lên bao điều cảm xúc khó tả. Nhìn người con gái út, ông nhớ đến Linh Châu
người chị cả của Ngọc Hương, em trở về thời người chị lại ra đi, hi sinh anh
dũng nơi trận chiến. Hình ảnh Ngọc Linh Châu đã hiện ra như con Phụng Hoàng
xông vào bầy sói dữ càng nghỉ nước mắt ông càng chảy ròng ròng.
Ngọc
Hương hốt hoảng:
Cha sao thế?
Ông
ghẹn ngào nói:
Chị cả hi sinh rồi, xác chị con còn nằm nơi
chiến trận.
Nói
xong nước mắt ông lại càng chảy hơn, thấy cha và anh vô cùng đau khổ. Ngọc
Hương nghiến răng nói:
Lũ ác ôn, giặc Ân rồi đây chúng bay sẽ biết
tay bổn cô nương, ta sẽ cho các ngươi biết thế nào là lòng căm hận của những người
thân, các ngươi đã tàn sát.
Ngọc
Hương nói:
Để con đi tìm xác chị về đây tạm thời an táng,
sau khi tiêu diệt giặc Ân đem chị về Châu Phủ an táng tử tế.
Nghe
Ngọc Hương nói ai nấy cũng đều kinh hãi. Trung Đại Nhân khuyên:
Con, nguy hiểm lắm, nguy hiểm lắm.
Trung
Hoài Nghĩa nói:
Hiền muội không nên đi vì lúc này giặc Ân
chưa rời xa hết nơi chiến trận, để giặc bỏ đi anh sẽ tìm xác chị.
Ngọc
Hương nói:
Từ đây đến đó cả hàng trăm dặm, giặc Ân tai
mắt cùng khắp, để em cỡi Thần Mã tới đó chưa được nữa giờ, lũ giặc Ân không làm
gì nỗi con đâu, hơn nữa con sẽ khôn khéo không cho chúng phát hiện. Cha, anh cứ
yên tâm.
Ngọc
Hương đứng phất dậy, hai con mắt tỏa hào quang oai phong lẩm lẩm, giờ đây nàng
không phải là con gái ngây thơ nữa mà là một Nữ Tướng anh hùng không khác gì
chị của nó Linh Châu oai phong lẩm liệt. Ngọc Hương nhảy lên con Thần Mã bay
lên không biến mất trong màn đêm u tối.
**************
PHẦN 15
Nói
về Vi Tử Khải thống lảnh 30 vạn quân hơn 2 nghìn chiến thuyền lớn, nhỏ, khí thế
dời non lấp biển, nếu quân Văn Lang không dốc toàn lực sức người, sức của hoặc
thiếu đi sáng suốt, phán đoán không chính xác, thời sẽ dẫn đến hậu quả vô cùng
tai hại, quân Ân sẻ dẩm lên đất Văn Lang như dẩm lên cỏ rác. Lòng yêu nước của
người dân Văn Lang thật đáng kính nể, từ già đến trẻ dù trai hay gái ai nấy
cũng xung phong tham chiến đuổi giặc Ân, hàng nghìn năm với truyền thống yêu
nước của nền Quốc Đạo, cũng bởi vì truyền thống yêu nước đó cho nên các quận,
huyện chưa kịp có lệnh rút lui hoặc di tản. Thời nhất nhất một lòng lần lượt đi
vào tử chiến, dù biết đó là đi vào con đường chết. Huyện Giang Trạch là một
minh chứng cụ thể, mở màng cho tinh thần chống xâm lăng đầy hào hùng thể hiện
lòng bất khuất hiên ngang anh dũng trước quân thù, sau đó các Châu Quận Huyện
cũng đều tử chiến như thế. Thành Tử Dương cũng đưa quân ra chống giặc tại eo Tử
Thần cách thành Tử Dương 25 - 26 dặm, với truyền thống con Rồng Cháu Tiên gần 2
nghìn năm, luôn luôn nêu cao ý thức chống ngoại xâm, chống đến hơi thở cuối
cùng, chẳng hạn như ba cha con Trung Đại Nhân cùng 7 nghìn quân lính đánh trận Hàm
Giang khúc sông Hàm Tử, như trận chiến phủ chánh Tư Mã Nhân tại thành Bắc Giang
Giao Châu và còn không biết bao nhiêu là trận chống xâm lăng đầy anh dũng nữa.
Nền
Quốc Đạo Tiên Rồng, Hiến Pháp của nước Văn Lang, tuy đã có phần lệch lạc tam
sao thất bổn qua truyền khẩu dẩn đến lệch lạc tinh hoa văn hóa Cội Nguồn, nhưng
vẫn còn anh linh vô tận, hùng khí dân tộc vẩn còn cao vót sẵn sàng chết cho Tổ
quốc, quyết sinh.
Đây
nói về huyện Giang Trạch không những giàu về tôm, cá mà còn giàu về lúa, gạo mà
người dân ở đây cũng giàu lòng yêu nước, nghe giặc Ân xâm lăng nước nhà, thời
lòng sôi lên sùng sục. Chúng ta sinh ra từ quê hương đất nước có chi mà sợ,
huyện Giang Trạch binh lính chỉ hơn 100, sau đó các làng xã, các quận, huyện,
làng xã lân cận tham gia chiến dịch chống giặc lên đến 2 nghìn người. Lợi dụng
địa hình hiểm trở, cung tên giáo mác phục kích khúc sông Triệt Giang, hai bên
bờ sông lau, sậy, dừa nước sầm uất rậm rạp.
Quân
Dĩ An nhìn thấy thuyền giặc nơi đầu nguồn xa xa, xuôi theo dòng nước từ từ lao
tới khúc sông Triệt Giang. Thuyền cách thuyền vài chục mét, thành một muỗi dài
tận đâu đâu, thuyền giặc cứ giữa sông mà đi, gần đến khúc sông Triệt Giang
thuyền giặc đi chậm lại. Ba cha con, bố Chánh Dĩ An nào có biết những chiến
thuyền đi đầu của giặc là những chiến thuyền trang bị hiện đại. Không những là
những chiến binh thiện chiến, thiện xạ, võ nghệ cao cường, trận pháp lại thông
mà còn ván thuyền cũng chắc tên lao khó phá vỡ. Binh lính quân Giang Trạch là
hỗn hợp chưa được tập luyện bao nhiêu, chỉ thấy giặc là đánh. Chờ cho thuyền
giặc vào tầm ngắm sâu vào khúc sông Triệt Giang là tấn công ngay, thấy thuyền
giặc đã vào tầm 5 - 6 chiếc, ba cha con Bố Chánh Dĩ An phất cờ ra lịnh tấn
công.
Thế
là tiếng hò hét vang dậy cả một vùng tên bay, giáo phóng như mưa nhưng thuyền
giặc không hề hấn gì, giặc tạo ra tường đồng, vách sắt nhiều miếng ghép lại vô
cùng nhanh chóng, hàng rào chống tên lao. Chỉ nghe lăng ken như pháo nổ rang,
tên lao rơi xuống nước lổm tổm như mưa trút. Thuyền giặc không bắn chống trả,
chỉ hơi dừng lại rồi tiếp tục lao đi. Thuyền giặc đã hơn 20 chiến kéo dài hơn
dặm, bỗng thình lình tấp vào bờ, người ngựa xông lên xáp chiến. Ôi thôi những
con nai vốn không nanh vuốt, chưa nhiều kinh nghiệm, chiến đấu binh pháp còn
non, đã gặp phải bầy hổ dữ, bầy cáo, sói đầy những răng nanh móng vuốt. Những
con hổ, báo đang đói với bầy cáo, sói đang thèm thịt người. Thế là loáng mắt
chúng liền chém sạch, thây người ngã đổ như chuối bị chặt.
Ba
cha con Bố Chánh Dĩ An đồng cùng chung số phận, giặc dẩm lên xác con dân Văn
Lang, con cháu Tiên Rồng, chúng tru lên như quỹ dữ, sói điên.
Chúng
còn nói:
Đồ cóc nhái mà cũng vuốt râu hùm.
Sau
có thơ ca ngợi rằng:
Sống chết ở đời có sợ chi
Vì non, vì nước có mấy khi
Người tuy ngã xuống, danh còn đó
Rồng Tiên mở hội mới kịp kỳ
Quốc Tổ Hùng Vương người có thấy
Cháu con nối gót thật uy nghi
Hồn nương theo gió ghì chân giặc
Trời Nam nay đã mở đề thi.
Trên
dòng sông Tử Dương có một chiếc thuyền rất to lớn, xung quanh mấy trăm chiếc
thuyền hộ giá. Đó là thuyền của Vi Tử Khải đang đậu giữa dòng sông chỗ khúc
sông sâu, bùng binh rộng lớn, bỗng có một chiếc thuyền nhỏ lướt mau như tên
tới thuyền lớn, khi gần tới thuyền lớn, từ chiến thuyền con, một bóng đen bay
lên như con chim Ưng hạ xuống thuyền lớn, đúng là một loại kinh công hiếm thấy
ở đời. Kinh công thượng đẳng, bóng đen đó là một thanh niên độ 40 - 41 tuổi.
Thì
ra đây là một tướng chủ soái của giặc Ân, chấp tay thi lễ hướng vào trong
thuyền nói:
Bẩm Vương Gia quân địch đã bị quân ta tiêu
diệt nhanh chóng. Đúng như lời phán đoán của Vương Gia, quân Nam chỉ là quân bị
thịt, chúng đã phơi xác đầy đất chật bải, trong khi quân ta tử thương có mấy
người. Quân văn Lang cũng chỉ là ếch nhái, ngu si hơn loài lợn. Loài lợn thấy
Cọp, Beo còn biết chạy trốn. Còn nầy chúng như cái trứng chọi đá, để rồi chết
sạch không phải là ngu lắm sao. Không bao lâu nữa nước Văn Lang sẽ thuộc về tay
Chúa Vương Gia.
Bổng
Vi Tử Khải xuất hiện khen:
Tướng quân khá lắm. Không những giỏi về võ
nghệ thuộc hàng thượng đẳng. Mà còn giỏi binh pháp, quân sự cơ. Không những thế
mà còn khéo ăn nói, ta ở đây chờ tin thắng trận việc lấy thành Lạc Giao Châu.
Ta sẽ tới đó bàn kế sách chiếm Nam Kinh Xích Quỹ.
Thuộc
hạ xin tuân lệnh. Nói xong vị trung niên tướng quân ấy như con Đại Bàng bay lên
không hạ xuống chiếc thuyền con loáng cái là mất dạng. Vi Tử Khải nhìn thấy cái
tài kinh công ấy cũng phải lắc đầu thầm phục: Quả đúng là một nhân tài hiếm
thấy.
Đây
nhắc lại, nói về kế sách tiến quân của giặc Ân bằng con đường thủy. Vi Tử Khải
cùng hơn hai nghìn chiếc thuyền theo chi nhánh sông Trường Giang vượt qua biên
giới tiến sâu vào nước Văn Lang, thuộc Huyện Giang Trạch tới khúc sông Tử Dương
bồng binh rộng lớn thượng nguồn của nhiều kinh lạch địa hình bằng phẳng cảnh
quang thông thoáng nhìn xa đến 6 - 7 dặm liền cho thuyền neo đậu lại. Hộp bàn
kế sách thôn tính nước Văn Lang. Thấy các quan tướng bàn sôi nỗi, nhưng toàn là
vấn đề xa thực tế.
Mao
Toại thấy vậy liền nói:
Theo tôi thì chúng ta nên bàn những vấn đề
trọng yếu. Những thứ tự mà chúng ta lần lược tiến tới ta phải giải quyết bằng
cách nào phương pháp cụ thể nhất. Chẳng hạn ta sẽ đến đoạn nào, nơi đó có những
gì, và sự nguy hiểm của nó. Chúng ta phải có phương án tác chiến gọn nhất và
nhanh nhất, ít làm tổn hại quân bị và binh lính. Như eo Tử Thần, khúc sông Tử
Thần. Nếu có quân Văn Lang mai phục, thời ta tiêu diệt chúng bằng cách nào,
hiệu quả nhất, gọn nhẹ nhất, đở hao binh lính chúng ta. Những khúc sông nguy
hiểm đi qua, phải để lại quân canh giữ, liên lạc thông tin hoặc bắn pháo hiệu
phát hiện khi có địch. Khúc sông thứ hai là khúc sông có thể nói là nguy hiểm
vô cùng. Đó là khúc sông Lạc Cội rừng Lạc Hồn, khúc sông chết. Tuy khúc sông
nầy khá rộng khoảng độ 200 mét lùm lách cây cối rậm rạp, lại có nhiều kinh rạch
chạy ngang chạy dọc. Chúng ta không thể không đề phòng khi đi qua địa phận nầy.
Tùy cơ ứng biến rút kinh nghiệm khi qua eo Tử Thần. Bổ sung ưu khuyết điểm,
tiến qua khúc sông Lạc Cội rừng Lạc Hồn.
Các
quan tướng thấy Mao Toại phân tích cụ thể chuyên sâu vào trọng tâm của vấn đề,
vừa linh hoạt vừa biến hóa ai nấy cũng phải thầm khen. Mao Toại là người học
thức yên bác, võ công xuất chúng, cơ mưu tài trí thuộc hàng thượng thừa. Lại có
cô em gái xinh đẹp như Tiên Nga gián trần điêu ngoa xảo quyệt thuộc hàng bật
nhất. Người đàn bà gian ác đầy ngón nghề mánh khóe. Là món đồ chơi ưu ái không
thể thiếu của Vi Tử Khải. Vì có cô em gái phục vụ đắc lực nên Mao Toại được Vi
Tử Khải tin tưởng giao cho những trọng trách lớn. Nghe Mao Toại phân tách đầy
hữu lý.
Vi
Tử Khải coi như đã tìm ra được Chủ Soái liền ra lệnh:
Mao Toại nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân
thống lảnh 20 vạn quân 2 nghìn chiến thuyền 400 binh lính thiết giáp, tiến đánh
thành Lạc Giao Châu, vượt qua Giao Giao Châu tiến đánh Quí Linh Giao Châu đánh
Kinh Kinh Giao Châu chiếm Nam Kinh Xích Quỹ trước Vi Tử Điển em ta. Làm lễ ra
mắt dâng lên Bệ Hạ. Chúa Công tuân lệnh.
Thế
là Mao Toại thống lảnh 20 vạn quân cùng các trấn chư hầu Vệ, Ngô, Lăng, Bái cho
thuyền xuôi theo dòng sông Tử Dương tiến sâu vào lảnh địa của nước Văn Lang.
Với tài điều binh khiển tướng bày binh bố trận, điều khiển 2000 chiến thuyền
như sau:
*-1: 500 chiến thuyền 5vạn quân đi đầu tiên phong
do Hồ Giả Nhân làm tướng soái tổng chỉ huy được phân bổ lực lượng như sau. 100
chiến thuyền đi trước, đi hàng một. Cứ giữa sông mà đi, thuyền cách thuyền độ
10 mét. 200 chiến thuyền kế theo đi hàng đôi thuyền cách thuyền 10 mét. Hàng
trước cách hàng sau 20 mét. Có hai chiếc nhỏ đi hai bên ở đoạn giữa chở 100
binh lính thiết giáp, là hai chiếc thuyền chủ lực, di chuyển mau lẹ vô cùng, Và
tấn công địch thủ vào chổ lợi hại nhất khi có lịnh của Tướng Soái. 200 chiến
thuyền kế theo nữa, đi hàng ba thuyền cách thuyền 5 mét, hàng sau cách hàng
trước 20 mét. Năm trăm chiếc thuyền 5 vạn quân tiên phong là đội quân xáp chiến
chủ lực được trang bị phương tiện xáp chiền hiện đại nhất thời bấy giờ. Đội
quân được coi như bách chiến bách thắng của giặc Ân.
*-2: Kế theo sau quân của Hồ Giả Nhân là quân
Trịnh Hoài Điển cũng 500 chiến thuyền, 5 vạn quân. Là quân xáp chiến bao vây
trận địa ở vòng một xé nát quân địch ra nhiều mảnh bao vây tiêu diệt. Quân
Trịnh Hoài Điển cách quân Hồ Giả Nhân 200 mét, cứ ba hàng ngang song song, ba
hàng dọc hàng trước cách hàng sau 20 mét. Có đội quân thiết giáp đi giữa ở hai
bên, cũng chính là đội quân chủ lực xáp chiến những chổ địch mạnh nhất khi có
lịnh của Tướng Soái chỉ huy.
*-3: Kế theo sau quân của Trịnh Hoài Điển là quân
của Ly Tử Càn. Cũng 500 chiến thuyền, 5 vạn quân là quân bao vây ở vòng hai
rộng lớn hơn khi đã đổ bộ lên mặt đất. Vừa chận đứng quân tiếp viện, vừa không
cho quân địch chạy thoát. Thuyền cách thuyền 5 mét bốn hàng ngang bốn hàng dọc
hàng sau cách hàng trước 30 mét.
*-4:
Kế theo quân của Ly Tử Càn là bộ tổng thâm mưu cũng gần 500 chiến thuyền, 5 vạn
quân cách quân Ly Tử Càn 200 mét, thuyền giăng năm hàng ngang năm hàng dọc.
hàng sau cách hàng trước 30 mét 400 chiếc thuyền. Còn 100 chiến thuyền sau cùng
giăng hàng 6.
Chính
giữa đội thuyền thứ 4 cũng là đội thuyền cuối cùng có một chiếc thuyền to lớn
chở mấy trăm binh sĩ. Đó là thuyền chở Mao Toại vị Chủ Soái tổng chỉ huy toàn
cục. Điều hành tướng lỉnh đưa quân xâm lược thôn tính nước Văn Lang. Bảo vệ
thuyền lớn có bốn chiếc thuyền nhỏ di chuyển vô cùng mau lẹ. Đó là thuyền chở
200 quân thiết giáp lợi hại vô cùng Đây là đội quân dự bị, bổ sung trận chiến,
đội quân xáp chiến sau cùng, để ăn thịt những con mảnh hổ đã bị thương, hoặc đã
kiệt sức ngất như. 5 đội tinh nhuệ 200 quân thiết giáp, là đội quân hùng mạnh
nhất trong bốn đội quân. Thế mà lại chuyên ăn nước cờ tàn. Chỉ cần con tốt cũng
làm nên chuyện lớn, huống chi là một lực lượng còn xe, pháo, mã.
Có
thể nói nước cờ xâm lược cao tay ấn nầy của Mao Toại, ứng dụng tấn công phòng
thủ, tiếp ứng biến hóa lợi hại vô cùng. Với tài bày binh bố trận, điều binh
khiển tướng, xuất quỹ nhập thần như thế, đương thời khó có người hơn được, vì
vậy mà Vi Tử Khải rất tin tưởng ở con người nầy. Có thể nói với lối tiến quân
đầy biến hóa, và mạnh như vũ bảo. Chúng luôn luôn tin tưởng nuốt quân Văn Lang
như nuốt một con nhái. Bằng chứng cụ thể chúng nuốt quân Dĩ An còn để hơn lấy
đồ trong túi. Thôn tính xong quân Dĩ An thuyền tiếp tục xuôi dòng. Hết Giang
Trạch qua Tử Dương tới Giang Châu cách eo Tử Thần ba dặm thời cho thuyền dừng
lại, đợi lịnh của Chủ Soái.
Mao
Toại báo tin xong liền trở lại thuyền. Thời thấy các tướng soái đã đợi sẳn.
Thì
ra người đàn ông trung niên báo tin thắng lên Vương Gia Vi Tử Khải, không ai
khác hơn chính là Chủ Soái Mao Toại. Mao Toại khi nghe qua tình hình do thám eo
Tử Thần phát hiện, thấy chim phát hiện có người bay toán loạn.
Mao
Toại cười ngất có vẻ xem thường đắc ý lắm:
Đúng là một lũ ngốc khác nào nói lạy ông tôi
ở bụi nầy.
Mao
Toại nói:
Tuy trời sắp tối nhưng có trăng sáng tỏ ta
vẩn cứ đi qua. Dù có 3 vạn quân mai phục, chẳng qua đó cũng chỉ là những miếng
mồi ngon cho ta xơi mà thôi.
Liền
nói nhỏ với ba tướng soái chỉ huy theo đó mà tiến hành. Có lẽ theo kế sách bí
mật của Mao Toại là ba vạn quân xáp chiến đối diện cầm chừng thu hút lực lượng
của địch dồn tới. Sáu vạn quân tỏa ra bao vây hốt trọn ổ mai phục. Và đúng như
vậy khi giặc Ân phát hiện hai bên bờ sông rừng âm u, eo Tử Thần có người mai
phục, liền cho sáu vạn quân tỏa ra lên hai bên bờ sông, mỗi bên 3 vạn quân bao
vây rừng Âm U. Sự bao vây nầy quân lính Tử Dương không hề hay biết. Chỉ nôm nôm
nhìn theo dòng sông chờ thuyền giặc sa vào ổ mai phục là đánh.
**************
PHẦN 16
Nói
về Quan Phủ Chánh Bố Cái Đại Nhân, nghe tin giặc giết chết ba cha con Bố Dĩ An,
thời đau xót căm hận lũ giặc Ân vô cùng. Bố Cái Đại Nhân nói với hai con là Bố
Cừ và Bố Khôi:
Chú họ, cùng các em họ các con đã ngả xuống,
mối hận xâm lược thù nhà nầy ta phải tính luôn cả vốn lẩn lãi với chúng và eo
Tử Thần là mồ chôn của lũ giặc Ân.
Bố
Cái Đại Nhân nói:
Ý đồ của giặc, là chỉ cần chiếm được các
Châu Thành trọng yếu. Thời các Châu Thành, Quận Huyện khác bỏ qua không đánh
cũng tự đầu hàng. Các con hãy huy động các Quận Huyện. Chọn những tay thiện xạ
cừ khôi, phóng lao thượng hạng, giỏi võ công tới eo Tử Thần phục kích tiêu diệt
giặc.
Eo
Tử Thần là ranh giới của Giang Châu và Tử Dương địa hình phức tạp. Cách thành
Tử Dương về hướng Tây Nam 27 - 28 dặm eo Tử Thần là khúc sông hẹp nước chảy
xiết. Nếu người có sức mạnh vào loại khá, thời có thể từ bờ nầy sang bờ kia. Sự
tính toán của phủ Chánh Bố Cái Đại Nhân phải nói là khá chu đáo, công phu, tiến
tới mạch lạc. Phục kích ở eo Tử Thần đã hai ngày đêm. Đêm nay là đêm thứ ba,
đêm quyết định vận mệnh giữa ta và giặc. Lòng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù bảo vệ
non sông Tổ Quốc. Trả thù cho những đồng bào anh em đã ngã xuống.
Trời
vừa xẩm tối, vầng trăng tròn đã treo lơ lững trên ngọn cây. Thuyền giặc từ từ
tiến gần đến eo Tử Thần 1 dặm, nữa dặm, rồi 100 mét 50 mét, 10 mét tới rồi.
Thuyền giặc cứ giữa sông mà đi, thuyền đi chậm, thuyền cách thuyền 20 mét. Có
hai thuyền nhỏ xen kẻ theo thuyền lớn lần lược tiến sâu vào eo Tử Thần. Ánh
trăng xuyên qua lùm cây kẻ lá. Cảnh lốm đốm sáng tối vằn vệnh lổ hang u linh
huyền ảo. Mặt sông lấp lánh cá lội tung tăng. Dòng sông đang yên bình tỉnh
lặng. Bổng sóng dậy ầm ầm quân reo dậy đất, tên bay lớp lớp, lao phóng như mưa.
Thế
là:
Ánh trăng lấp lánh Tử Dương sông
Cá lội tung tăng lướt ngược dòng
Bổng đâu gươm giáo rền sông núi
Máu chảy đầu rơi lấp ngăn sông
Thương thay chiến sỉ vì non nước
Giữ gìn tất đất của cha ông
Chết vì đại nghĩa, vì trung hiếu
Sáng bừng khí phách, rạng Tổ Tông.
Ba
cha con thấy thuyền giặc đã sa vào lọt vào ổ phục kích liền chỉ giáo vào thuyền
giặc thét lớn tấn công.Thế là quân reo dậy đất, tên bay lớp lớp, lao phóng như
mưa. Thuyền giặc liền đứng lại chống cự. Tên qua giáo lại tên lại giáo qua mỗi
lúc mỗi thêm dữ dội, tên lao như mưa trút. Quân Tử Dương càng đánh người nầy
ngả xuống người khác đứng lên. Thuyền giặc muốn tấp vào bờ cũng không nỗi đã có
một số binh lính giặc đã tử trận.
Sau
có bài thơ ca ngợi rằng:
Khiếp cho con cháu Tiên Rồng
Vì non vì nước lướt xông diệt thù
Dẫu cho quân giặc trùng trùng
Rồng Tiên nào sợ cuộn cuồn xông lên
Dẫu cho giặc khắp Tây Đông
Tung hoành ngang dọc cũng không sợ gì
Tuy người đã ngã xuống rồi
Nhưng hồn đã nở một trời hoa xuân
Con đường chính nghĩa rộng thênh
Gương Thiên trung hiếu rạng rền cha ông
Hỡi ai con Lạc cháu Hồng
Vai mang chính nghĩa Tiên Rồng tiến lên
Cha Trời Địa Mẫu kề bên
Con đường truyền thống anh linh con đường.
Chiến
trận xảy ra hơn một giờ qua giờ Dậu nữa giờ Tuất. Quân Tử Dương đang chiến đấu
hăng say. Thời nghe sau lưng quân Ân đã thắt chặc vòng vây tiến sát sau lưng
đánh bọc tới như thát đỗ. Quân Tử Dương liền bị kẹp giữa hai làn tên mủi giáo.
Giặc tấp thuyền vào bờ xông lên. Giặc sau lưng tràng tới đèn đuốc trùng trùng
điệp điệp, hai mũi giáp công. Quân Tử Dương loáng cái là chết sạch. Giặc Ân
thắng liền hai trận, Triệt Giang và eo Tử Thần. Eo Tử Thần giặc có tổn thất
nhưng không đáng kể. Còn Tử Dương thiệt mạng hơn nữa vạn quân. Thời lòng kiêu
ngạo của giặc nỗi lên cao vót.
Có
tướng không kiềm hảm được lòng kiêu ngạo đắt ý thốt:
Sự phục kích tiêu diệt quân ta cũng chỉ đến
thế mà thôi. Quân Văn Lang cũng chỉ là con cọp đất, được nén lên vẻ vời mà thôi
hữu danh vô thực. Nói cho cùng cũng chỉ là loài ếch nhái ềnh oang lỗ miệng,
thùng rỗng kêu to có khác.
Nói
xong bọn chúng cười lên hềnh hệt coi quân Văn Lang cỏ rát. Đây nói về Mai Đức
Thọ. Theo lệnh của Hùng Vương Gia điểm 3 vạn quân tốc hành tới Tử Dương Châu.
Cách eo Tử Thần khỏi rừng Âm U hai dặm ẩn núp khu thung lũng Tử Thần đừng để
cho giặc phát hiện. Ngụy trang khéo léo đừng cho chiêm chóc phát hiện sợ hãi.
Không phải là yểm trợ quân Tử Dương. Mà là thực hiện theo một kế sách bí mật.
Sau khi quân Ân đánh bại quân Tử Dương bỏ đi, Thời mới thực hiện theo kế sách
bí mật đó. Đã gọi là chiến trận phục binh cơ, càng bí mật thời càng thắng. Vì
vậy mỗi hành động đều phải hết sức cẩn thận. Bất ngờ tiêu diệt địch.
Sau
khi 3 vạn quân ẩn mình kín đáo, thời quân dò thám do Mai Đức Thọ phái đi theo
dõi tình hình quân giặc đã trở về bẩm báo lại tình hình:
Bẩm chủ soái, quân Ân đã tỏa ra hai bên eo Tử
Thần đông như kiến, hình như quân Tử Dương chỉ lo phục kích eo Tử Thần nên
không hay biết gì cả.
Mai
Đức Thọ bỗng thở ra:
Hùng Vương Gia diệu đoán như thần, quân Tử
Dương khó mà thoát chết.
Rồi
hạ lệnh án binh bất động bảo vệ tuyệt đối an toàn bí mật. Nghe tiếng binh khí
chạm nhau, quân reo dậy đất nhưng mới hơn một canh giờ im bặt, không gian yên
tĩnh trở lại, thế là hết. Mai Đức Thọ nghỉ: Quân Tử Dương giờ này chẳng còn
một mạng.
Mai
Đức Thọ nghiến răng trẹo trẹo:
Quân ăn cướp, quân dã mang xâm lược, chúng
mày sẽ đền tội, chúng mày đã dẩm chân lên đất Văn Lang thời không còn xác để
trở về quê hương đất nước nữa, cho chúng mày kêu căng hách dịch rồi thi nhau về
chầu âm phủ.
Nói
về quân thắng trận vẻ vang, dừng quân khao thưởng tướng sĩ cho tới sáng. Chúng
vứt xác quân Tử Dương xuống sông cho cá nuốt, tôm xơi. Có những tên hung tợn
chúng đạp lên thể xác nạn nhân, lúc la lúc lắc cái đầu, dưới ánh trăng mờ cũng
có thể lộ bộ mặt xù xì như da cóc với cặp mắt cú vọ, dều hâu, loài kềnh kênh,
dồm thịt người chết chảy nước dãi. Loài hổ, báo nhìn thấy cũng phải lắc đầu cho
loài yêu tinh khác máu, quá tàn độc không còn nhân tính của loài người. Lũ giặc
Ân chúng đã chà đạp lên quê hương non sông Tổ quốc Văn Lang, giết người cướp
của, ăn thịt trẻ con, hảm hiếp đàn bà con gái. Tội ác của lũ ngoại xâm đã cao
như non, như núi và chúng cứ tiếp tục tiến sâu vào đất Văn Lang tiếp tục gây
thêm nhiều tội ác mới tàn độc hơn nữa và chúng đã bắt đầu thọc sâu vào đất Văn
Lang địa phận Lạc Giao Châu.
Nơi
eo Tử Thần, giặc để lại ba chiến thuyền hai lớn một nhỏ, khoảng độ hơn 100 quân
tướng. Cầm đầu là tên mặt đen như lọ chão Hắc Hổ, lúc nào cũng khoát lác khoe
khoan múa tay múa chân như con rối:
Ta là vị tướng tài nên Mao Thống Soái mới phái
ta chỉ huy canh giữ nơi đây. Với cái mũi trâu của ta có thể đánh hơi mùi giặc
hơn 3 dặm với lỗ tai chuột của ta có thể nghe tới tận âm ti, cặp mắt lương ti
hí của ta có thể nhìn thấu ruột gan của đàn bà.
Nghe
tướng chỉ huy nói những cái tài của mình thuộc hàng hiếm thấy ở thời nay, liền
nịnh hót tán thán ca ngợi hò reo vang dậy cả rừng âm u, làm cho chim chóc bay
lên loạn xạ. Chúng có biết đâu chúng vừa mới giết quân Tử Dương, thời có đội
quân chủ lực nước Văn Lang tiến tới gần mai phục. Có thể nói chúng vừa nuốt con
nai, nhưng đã có con hổ tới ăn thịt chúng. Hắc Hổ nghe binh lính ton hót nịnh
bợ sướng tai, khoái cả mình liền ra lịnh chè chắn vui say cả ngày.
Một
ngày sắp qua, mặt trời sắp đi ngủ, đàn chim cũng vội vã bay đi tìm nơi ẩn núp
qua đêm, điều kỳ lạ ở đây sao hôm nay mặt trời chưa xuống đất trời bổng âm u
đến lạ lùng, sương mù mỗi lúc càng thêm đày dặc. Đó có phải là do khí thiên
sông núi kết hợp với anh linh tử sĩ, hồn thiêng sông núi tạo ra để giúp cho
quân chủ lực tiêu diệt kẻ thù. Chỉ có Trời Đất, Thần Thánh là hiểu rõ điều này.
Bỗng 10 chiến thuyền đầu nguồn đỗ xuống theo dòng nước lao đi vùn vụt tới eo
Tử Thần, đề cờ quân Ân tiếp viện lương thực.
Một
tên lính phát hiện la lên:
Có thuyền, có thuyền.
Nhưng
vì sương mù dày dặc che khuất tầm nhìn, khi thấy được thuyền thời thuyền đã đến
gần chỉ còn hơn 100 mét. Có người la lên:
Bắn pháo hiệu mau.
Hắc
Hổ nói:
Khoan đã để xem thuyền ai rồi bắn pháo hiệu
cũng chưa muộn.
Thấy
chưa tướng mặt đen nói:
Ta nói có sai đâu, khúc sông làm gì có
thuyền địch, đó là thuyền của ta tiếp viện lương thực, may chưa bắn pháo nên
chưa làm hỏng đại sự.
Loáng
cái thuyền đã sát thuyền, nhanh hơn loài sóc với những đường gươm thần tốc bay
qua bất ngờ chém xuống đầu giặc véo véo, phặp phặp, chém giặc Ân như chém
chuối, lính giặc Ân vừa tỉnh rượu thời hồn đã lìa khỏi xác. Tướng giặc Ân Hắc
Hổ định nhảy xuống sông tẩu thoát, nhưng ánh sáng kiếm báu đã chớp lên, tức
thời đầu tướng giặc bay đi lông lốc rớt tổm xuống nước, người chém đầu tướng
giặc không ai khác hơn chính là tướng soái Mai Đức Thọ.
Thế
là nháy mắt trăm tên giặc đi đời làm hồn ma xứ người, bắt sống 10 tên với ngón
nghề mưu trí, khai thát thông tin bí mật của bọn chúng, cuối cùng dụ dổ bọn
giặc cũng có tên khai.
Chúng
khai rằng:
Nếu thuyền ta thời bắn pháo hỏa xanh, thuyền
bên kia cũng phải bắn pháo xanh đáp lại như vậy, bắn hai quả pháo xanh là báo
hiệu nơi đây đã an toàn, bắn pháo hiệu một xanh một đỏ là báo hiệu địch đã
mai phục, bắn pháo hiệu một vàng một đỏ là báo hiệu cầu cứu viện binh, nếu
bắn sai mật hiệu đó là thuyền địch.
Khai
thát xong viên quan tướng liền hỏi:
Ngươi giết quân Tử Dương mấy mạng?
Nghe
hỏi thế tên giặc biết mình khó sống liền nhảy xuống sông tự vẩn, nhưng nào kịp
ánh đao đã chớp lên thế là rồi đời những tên giặc cuối cùng. Những việc tuyệt
đối quan trọng, Mai Đức Thọ phải tự mình làm lấy, tự mình giải quyết không thể
nào giao cho ai được, với kế sách đầy gan dạ khôn khéo mưu trí nên đã gặt hái
nhiều kết quả như mong muốn nhanh chóng, gọn sạch. Thôn tính bọn giặc xong,
quân ta đóng giã làm quân giặc, 10 chiến thuyền chạy ngược dòng sông tìm nơi ẩn
núp sâu kín trong kinh lạch, thực hiện kế sách nhiệm vụ tiếp theo.
Mai
Đức Thọ cho binh lính đóng cọc giữa dòng sông 5 - 6 dặm, đoạn giữa cọc trận,
giữa eo Tử Thần đóng cọc đầy lòng sông hơn nữa dặm, chận đứng quân tiếp viện,
chận đứng quân thua chạy rút lui, ép chúng vào hai bên lòng sông để tiêu diệt.
Hai bên eo Tử Thần phân bổ lực lượng theo cơ trí phán đoán tình hình rút lui
của giặc, phân bổ lực lượng chủ lực đội quân thiết giáp theo móc xích liên hoàn
công thủ, vây bắt chủ thống soái Mao Toại khi sa bước đường cùng. Ba vạn quân
Văn Lang với tinh thần quyết tử cao, ẩn mình kín đáo chờ giặc đến là xáp chiến.
**************
PHẦN 17
Mối hận nào hơn mối hận nầy
Giết người cướp của giặc ác thay
Công lý Trời cao nào có thấy
Thay Trời hành đạo chẳng nương tay
Một đạo hào quang trùm khắp chốn
Thiên La Địa Võng chuyển vòng xây
Sấm dậy Trời Nam rền đất Bắc
Giặc Ân tan xác Cọc trận này.
Đây
nói về Huỳnh Trung Phong. Thống lãnh 10 vạn quân. Theo kế sách của Hùng Vương
Gia phân chia lực lượng ra làm ba mũi tiến công nhanh chóng hoàng thành kế sách
hoạch định đã đề ra. Tiêu diệt giặc Ân tại khúc sông Lạc Cội rừng Lạc Hồn.
Trước khi giặc tấn công vào thành Lạc Giao Châu.
Huỳnh
Trung Phong ra lịnh:
Phan Anh Tuấn nghe Lịnh. Có thuộc hạ. Tướng
quân điểm ba vạn quân phân công làm ba nhiệm vụ khẩn cấp quan trọng.
1: Chặt cọc.
2: Vận chuyển cọc.
3: Đóng cọc xuống lòng sông.
Hình
thù như cái toa lờ kéo dài 9 - 10 dặm theo kế sách đã hoạch định.
Rồi
rĩ tai nói nhỏ một hồi. Chỉ thấy Phan Anh Tuấn, nét mặt hiện lên đầy vẻ căng
thẳng khẩn cấp vội vã điểm quân ra đi.
Nguyên Gia Thành nghe lịnh. Có thuộc hạ.
Tướng quân điểm 3 vạn quân chia làm ba nhiệm vụ:
1: Đóng bè chở chất đốt lớn nhỏ trên 5 nghìn.
2: Vận chuyển dầu.
3: Tìm chất đốt củi rác rơm.
Chuẩn
bị cho trận hỏa công, ẩn mình, ẩn bè ngụy trang thật khéo léo đừng cho giặc
phát hiện.
Rồi
rĩ tai nói nhỏ một hồi. Chỉ thấy sắc mặt Nguyên Gia Thành đầy căng thẳng, vội
vã điểm quân ra đi thi hành nhiệm vụ.
Huỳnh Trung Thông nghe lịnh. Có thuộc hạ.
Con điểm 3 vạn quân chủ lực chia làm ba:
1: Huy động hơn 2000 chiếc thuyền nhỏ ngụy trang
khéo léo ẩn sâu xa bờ sông. Một nữa thuyền chuẩn bị chất đốt cho trận hỏa công,
một nữa thuyền chở quân lao ra xáp chiến.
2: Đội quân thiết giáp, thiện xạ, tên đồng, tên
sắt, tên độc.
3: Đội quân phóng lao, đội quân tên lữa, đội
quân gươm đao giáo mát phục kích hai bên bờ sông có lịnh là xáp chiến.
Rồi
rĩ tai nói nhỏ một hồi gì đó. Chỉ thấy mặt Huỳnh Trung Thông sát khí đằng đằng
vội vã điểm quân phân công theo kế sách đã hoạch định.
Chu Thành Lợi nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng
quân điểm 1 vạn quân chặt tre vận chuyển ẩn dấu hai bên bờ sông để dùng đẩy bè
lữa, thuyền lữa xông ra khỏi bờ lao vào đốt thuyền giặc. Tuân lệnh.
Tất cả phải hoàng thành trước hai ngày,
trước khi giặc đến.
Nói
về Mao Toại cùng binh lính tướng sỉ sau hai lần thắng trận quá dễ dàng, sanh ra
kêu ngạo xem thường quân Văn Lang, ăn uống no say không cần vội vã, vì chúng
nghỉ thôn tính nước Văn Lang chỉ là thời gian mà thôi, chúng muốn lúc nào mà
chẳng được, tin thắng lợi dồn dập làm cho Vi Tử Khải sung sướng muốn phát điên
cùng Mao Ly Hương dồn dập mưa xuân chờ ngày xưng Vương Nam Đế.
Mặt
trời đứng bóng con thuyền, mãng thuyền xà kéo dài hơn 10 dặm, nước vốn do mưa
nguồn đã đục con mãng thuyền xà khổng lồ khuấy động ầm ầm làm cho thêm đục.
Chúng từ từ vượt qua khúc Tử Giang, tiến sâu vào khúc sông Lạc Giao Châu 20 vạn
quân, 2 nghìn chiến thuyền lớn nhỏ ùn ùn chuyển động dậy đục lấp trong, có phải
chăng đây là ý Trời hay là giặc gặp xui thời khúc sông vốn đục, giặc khuấy, mưa
nguồn càng thêm đục. Thuyền giặc cứ giữa dòng sông mà đi thời khó mà phát hiện,
cọc trận đã âm dưới nước đến ba tất, kéo dài đến 10 dặm như một toi lờ dài
khổng lồ, hầu như gần hết khúc sông Lạc Cội, rừng Lạc Hồn.
Con
mãng xà thuyền cứ rầm rầm, rộ rộ lao đi tìm mồi để ăn thịt, gần tới khúc sông
Lạc Cội, rừng Lạc Hồn thời trời sắp tối, đáng lý ra từ eo Tử Thần đến rừng Lạc
Hồn khúc sông Lạc Cội chỉ hơn nữa ngày mà thôi, nhưng vì thuyền giặc đi chậm có
chủ ý, quan sát địa hình xem xét cẩn thận vì vậy nên mới đi lâu. Chỉ còn hơn
dặm nữa là tới khúc sông Lạc Cội, khúc sông tuy rộng rãi nhưng đầy bí hiểm.
Mao
Toại liền cho thuyền dừng lại vì đây là rừng Lạc Hồn âm u bao phủ hai bên kéo
dài hơn 10 dặm. Đây là khúc sông đầy nguy hiểm, kinh lạch chằn chịt ở đoạn sông
này, Mao Toại liền cho người dò thám nghe động tịnh của chim chóc, nhưng không
phát hiện được gì, Mao Toại hơi lấy làm lạ. Để chắc ăn hơn Mao Toại ra lệnh cho
đội thuyền con thám thính khi mặt trời buông xuống, tiến sâu vào khúc sông Lạc
Cội, rừng Lạc Hồn nghe ngóng theo dõi động tỉnh khả nghi, để mà tính kế đối phó
với địch khi đi qua khúc sông này.
Màng đêm buông xuống
Mù sương kéo đến
Ánh trăng lấp lánh
Chị Hằng soi mặt đầy sông
Trời yên gió lặng rừng buồn, rừng nghe.
Bỗng
khúc sông Lạc Cội xuất hiện nhiều chấm đen nhè nhẹ xuôi theo dòng nước, thì ra
đó là những chiếc thuyền con chỉ chở được ba, bốn người. Nhẹ nhàn đi giữa dòng
sông có lúc chúng cũng tấp vô gần bờ khoảng 5 - 10 mét yên lặng lắng nghe,
chúng đã đi sâu vào khúc sông Lạc Cội khoảng 5 - 6 dặm, chúng không phát hiện
được gì liền cho thuyền quay trở lại.
Lúc
này mới nhận rõ là thuyền của giặc có bốn chiếc, ba chiếc quan sát còn một
chiếc chở pháo hiệu. Rừng âm u Lạc Hồn vẩn yên bình, đàng chim vẩn tự nhiên bay
đi bay đến, tiếng gà đã mấy lần gáy, phương Đông ửng hồng xuất hiện, sương mù
dày đặc bổng có tiếng động, ồ ra là thế, một chiếc thuyền con của giặc nằm yên
suốt đêm ở lại theo dõi tình hình động tỉnh. Có thể nói một sự phục kích theo
dõi tình hình, động tịnh hết sức bí mật, đầy sự chu đáo của tướng chỉ huy đầy
mưu trí tài năng này. Trời vừa hừng sáng chiếc thuyền con âm thầm lặng lẻ phục
kích theo dõi suốt đêm, giờ đây mới lao nhanh ra khỏi khúc sông Lạc Cội phóng
thẳng tới thuyền to lớn, thời đã thấy Hồ Giã Nhân đã đứng chờ đợi không rõ từ
bao giờ.
Ba
cao thủ thám tử mật thám phóng lên thuyền lớn chấp tay thi lễ nói:
Bẩm tướng soái, chúng thuộc hạ suốt đêm nghe
ngóng không phát hiện được gì, chim chóc thú cầm vẫn tự nhiên như không hề có
người ở đó.
Hồ
Giã Nhân nghe xong hết ngạc nhiên, xuống thuyền nhỏ lao đi vùn vụt đến chiếc
thuyền lớn báo cáo tình hình dò thám suốt đêm. Mao Toại cùng các tướng lỉnh
nghe qua tình hình dò thám suốt đêm củng không phát hiện được gì thời lấy làm
lạ, nghỉ: Không lẻ, không lẻ.
Mao
Toại nói:
Không lẻ không chẳng gì cả, thì ra là thế,
thì ra là thế, chúng đã phục kích hai lần đều thất bại cả hai, chúng sợ ta tỏa
ra bao vây tiêu diệt chúng vì thành trì chỉ là khu rừng không vững chắc chúng
sợ khi ta phát hiện ra chúng không những tỏa ra bao vây, còn tiêu diệt chúng
bằng hỏa công, chi bằng dồn hết lực lượng bảo vệ thành.
Mao
Toại khoái chí cười lên khanh khách:
Chẳng có con ma nào phục kích ở đây đâu? Sự
tấn công nước Văn Lang lần này của chúng ta rãi đều khắp hơn 160 vạn quân, thọc
sâu vào đất Văn Lang vào những nơi chính yếu, buộc quân Văn Lang xé nhỏ lực
lượng chia nhau đối dịch với ta. Chúng ta có mộng xâm lược từ lâu nên chuẩn bị
chu đáo về binh lực hùng mạnh, còn chúng thời thái bình an Lạc lâu như thế lại
bất ngờ chi viện cho chiến tranh, lẽ đương nhiên chúng lấy đâu ra quân tinh
nhuệ đông như người ta mà cảng bước tiến của ta. Dù cho chúng có 10 vạn quân
mai phục ở đây, thời chúng cũng chỉ là con mồi cho ta nuốt mà thôi, chúng cũng
đã hiểu quân ta đông, trang bị kỷ thuật chiến tranh hiện đại, nhiều chiến thuật
biến hóa, cụ thể như eo Tử Thần, chúng chẳn còn một tên.
**************
PHẦN 18
Bình
minh ló dạng ông mặt trời cũng vừa thức dậy, nhưng khúc sông Lạc Cội, rừng Lạc
Hồn vẫn mù sương dày dặc âm u. Quân Ân nóng lòng thôn tính nước Văn Lang nghỉ
đến cảnh thống trị phương Nam tha hồ mà vơ mà vét của ngon vật lạ, ngọc ngà
châu báu, sơn hào hải vị, gái đẹp cung phụng cả đời. Chúng nhìn non núi hùng vĩ
rừng xanh tăm tắp xa xa những cách đồng bao bọc, cảnh xóm làng ôm lấy vạn lũy
tre, đầy cánh cò bay, thơm mùi lúa chín, chim hót trâu nghe. Phương Nam rộng
lớn mờ mờ ảo ảo, huyền bí lung linh sáng chiều sương khói ôm lấy quê hương, một
màu xanh hiền hòa ấm cúng. Bức tranh quê đẹp tựa bồng lai, chúng gục gục cúi
đầu như muốn nói rằng giang sơn này là của chúng.
Bỗng
có tiếng nói cắt ngan sự suy tưởng ảo vọng đầy lòng tham của giặc:
Thưa chủ thống soái, hôm nay là ngày gì mà
sao sương mù chẳng chịu tan? Trời đất càng lúc càng âm u, liệu chúng ta có đi
qua khúc sông Lạc Cội, rừng Lạc Hồn này không? Hay đợi vào hôm khác.
Mao
Toại nói:
Có gì mà không qua, đi ngang lúc này cần gì
đợi đến ngày mai, chúng ta đã cho người dò thám suốt đêm cũng không phát hiện
được gì, sâu vào đến 5 - 6 dặm tất cả đều yên tỉnh, chim chóc chẳng động bay,
thú cầm vẩn nhởn nhơ như không có người.
Mao
Toại liền ra lệnh tiến quân, thế là con mãng xà thành tinh khổng lồ lao đi một
cách chầm chậm.
Lưới người giăng khắp Lạc Cội Giang
Trời u đất thảm dệt u màng
Xa xa vang vọng gà đã gáy
Trời đông rừng rựng ánh dương quang
Hôm nay có phải ngày quỹ khóc
Mà sao sương mãi chẳn chịu tan
Hồn Thiên sông núi vào trận chiến
Hay cõi âm ti mở Địa Đàng.
Con
mãng xà thành tinh khổng lồ mỗi lúc mỗi tiến sâu vào khúc chết, giặc Ân vô cùng
hồi hộp, thuyền càng tiến sâu càng thấy bình yên, ngoài những con chim nhí nha
nhí nhảnh nhảy nhót lung tung. Thế là giặc Ân thở phào nhẹ nhổm, giảm bớt áp
lực căng thẳng, sự cảnh giác cũng có phần lơ là, có những tên lính linh cảm
rằng, mình sẽ bỏ mạng tại nơi đây, nhưng không dám hó hé chi cả. Tuy bầu trời
mỗi lúc một sáng tỏ, nhưng quang cảnh Lạc Cội vẩn âm u đến rợn người.
Mãng xà lang sói đã đến rồi
Lạc Giang nỗi sóng dậy đất trời
Bốc mùi xâm lược bay khắp chốn
Hôi tanh gian ác dậy khắp nơi
Hỡi loài xâm lược ngươi có biết
Văn Lang có chủ mấy nghìn đời
Chớ cậy mình tài đi xâm lược
Lạc giang là chốn xác thây phơi
Kìa mặt trời đã bừng lên hồng đỏ
Khắp non sông già trẻ đuổi ngoại xâm
Gươm trung hiếu, mấy nghìn năm luyện chín
Diệt quân thù bảo vệ đất Nam Linh.
Khi
chiến thuyền đầu tiên của giặc chỉ còn 100 mét nữa là ra khỏi khúc sông Lạc Cội
rừng Âm U, cả 100 tên lính đi chiến thuyền đầu tiên reo lên ầm ỉ, gần qua khúc
sông Tử Thần rồi, sương mờ mờ đã giảm một miền quê quang đảng mênh mông. Thuyền
đang đi giữa dòng bỗng đụng phải gì thuyền không đi được.
Chúng
la lên:
Cái gì thế? Cái gì thế?
Thuyền
sau dồn tới nối đuôi nhau hỏi:
Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?
Các
thuyền sau lách mình vượt lên càng lúc càng mắc kẹt chạy không được, tiếng la
hoảng nỗi lên cùng khắp:
Cọc, cọc, cọc gì, cọc gì.
Thuyền
càng dồn tới tấp lách vào hai bên dòng sông, hể ráng tấp vào bờ liền bị mắc kẹt
trong cọc trận. Bỗng pháo lệnh tử chiến khắp nơi đã bắn lên.
Rừng chyển động quân rền ngựa hí
Tên rợp trời xả xuống lũ giặc Ân
Giờ quyết tử vì non sông Tổ quốc
Tiến lên tiến lên, con cháu Lạc Hồng.
* * *
Lạc giang binh lửa mịt mù
Tên bay rợp đất, kiếm rền dậy non
Gươm đao chơm chớp loáng loang
Ầm ầm trận địa kinh thiên rợn người
Ào ào lao phóng rợp trời
Cuộn cuồn người ngựa xông vào xáp xông
Lữa trời bùng dậy khắp sông
Xông vào thiêu đốt giặc Ân tơi bời
Thuyền giặc kẹt cứng hết rồi
Thi nhau bốc cháy rực trời đỏ sông
Giặc Ân chống trả không xong
Xác người ngã xuống lấp sông ngăn bờ
Một bên vì nước vì nhà
Một bên xâm lược tràng qua giật mình
Đã vào trận đánh tử sanh
Kể gì sống chết, liệt hoanh anh hùng
Kể gì sanh tử sống còn
Bình sanh dốc hết lấp vùi giặc kia
Cuộn cuồn đao kiếm tung bay
Trút lòng lửa hận tan thây giặc thù
Ôi thôi một lũ giặc cuồng
Ra đi còn xác ngày về thời không
Ôi thôi một lũ cuồng ngông
Dã tràng xe cát biển đông dã tràng
Ôi thôi một lũ bạo tàn
Khói mây rồi cũng đăng đàng khói mây
Móc son lịch sử là đây
Bài học xâm lược dễ xơi mà hòng
Ở đời nhớ mãi ở đời
Tham lam xâm lược để rồi vùi chôn
Được gì hỡi lũ ngoại xâm
Được mang tiếng ác muôn năm đời đời.
Nói
về quân giặc đã biết mình sa vào kế bẩy thủy âm cọc trận của địch, thời thất
kinh thuyền dồn tới nối đuôi nhau kẹt cứng vào bờ không được, lui không được,
người ngựa lao chao thuyền có lúc như muốn lật, hai bên bờ sông tên bắn như mưa
trút, giáo lao cuồn cuộn tuôn ra trút xuống như thát gầm, trừ đội quân thiết
giáp của giặc chưa thiệt hại mấy, đang chống trả quyết liệt, thuyền giặc day
trở khó khăn hể tấp vào bờ liền mắc kẹt trong cọc trận, xáp chiến một hồi bỗng
thấy bè từ lùm cây lạch nước chui ra lúc nhúc, lớn, nhỏ thi nhau theo dòng nước
tuông ra áp sát thuyền giặc.
Quân
giặc sợ quá la lên:
Coi chừng hỏa công, coi chừng hỏa công.
Nhưng
ôi thôi hàng chục nghìn tên lửa lao ra đỏ rực bầu trời, bè củi tẩm dầu sẳn gặp
lửa liền bốc cháy dữ dội. Khúc sông dài hơn 10 dặm đã biến thành khúc sông lửa,
ngọn gió xoáy không hiểu từ đâu cuộn đến làm cho ngọn lửa bừng lên khủng khiếp
phủ xuống đầu giặc, binh lính giặc Ân nhảy xuống sông lao vào bờ đông như kiến.
Lớp đạp lên nhau chết chìm, lớp thì bị cọc đâm chết, lớp thì bị lửa thui, lớp
thì bị trúng tên lao mà chết.
Tiếng
gào thét rền trời rền đất làm kinh động đến Huyền Cơ Lão Tổ, mở con mắt trời
nhìn xuống nhân gian thấy cảnh ấy cũng phải lắc đầu nói:
Ý Trời, ý Trời kiếp nạn Văn Lang sau này khó
tránh khỏi, giặc chết đến đâu sau này giặc sinh đến đó.
Nói
về quân giặc chỉ còn con đường sống là nhảy xuống nước dẩm đạp lên nhau xông
lên bờ, lớp này ngã xuống, lớp khác xông lên thi nhau nạp mạng. Giặc hỗn loạn
mất hết tinh thần chiến đấu làm sao chống trả nổi. Căm thù của giặc ngút tận
trời xanh của quân Văn Lang, chỉ nghe tiếng hò hét dậy trời Đao, Kiếm chém xối
xả vào quân giặc như chém chuối.
Tướng
giặc Ân là Hồ Giã Nhân biết không thể cứu vản được tình hình, liền phi thân
chạy trốn, chỉ thấy một cái bóng vụt qua biển lửa lao nhanh lên bờ phóng đi vùn
vụt, chưa thoát ra khỏi vòng vây của quân Văn Lang, đang đà chạy thoát.
Bổng
một luồng kình lực ngăn chặn lại:
Tướng giặc ngươi chạy đi đâu, để cái đầu lại
đã.
Hồ
Giã Nhân thấy trước mặt mình ba người đeo mặt nạ quỷ đã xuất hiện đến đòi hồn,
Hồ Giã Nhân biết khó thoát thân được đành rút kiếm ra tử chiến véo véo với
đường kiếm đầy bí hiểm, nhanh như tia chớp chém xuống người chính giữa với tất
cả bình sanh 12 thần công lực. Bỗng thấy hai Đao một Kiếm đồng chớp lên với vận
tốc kinh người, ầm ầm ầm Hồ Giã Nhân bật ra sau đến sáu, bảy mét, mồm thở ra
máu. Hồ Giã Nhân đã cởi giáp, bỏ ngựa âm thầm thoát thân, nhưng làm sao qua
được con mắt nhà nghề đã để tâm chú ý.
Hồ
Giã Nhân khích tướng tìm cơ hội tẩu thoát:
Các ngươi tự cho mình là anh hùng sao? Ba
người đánh một.
Người
chính giữa nói:
Đối với lũ ngoại xâm các ngươi ta không cần
có anh hùng mà chỉ cần lấy đầu ngươi tế hồn chiến sỉ, những người dân vô tội bị
lũ lan sói các ngươi sát hại. Tiến lên giải quyết tên giặc này sớm đi tiến lên.
Hồ
Giã Nhân biết mình khó sống liền lấy ra một vật gì đó để cùng chết với nhau,
nhưng không còn kịp nữa, ánh Đao, ánh Kiếm đã chớp lên chân, tay, đầu, mình của
Hồ Giã Nhân bị chặt lông lốc.
Rồi đời một kiếp gian hùng
Lang thang đói rách một vùng âm ti
Giấc mơ Vương Bá còn chi
Hồn lìa khỏi xác, hồn đi âm tào.
Đây
nói về Trịnh Hoài Điển cho quân phá cọc lao thuyền vào bờ tránh lửa, bất kể
sống chết, đội quân thiết giáp xông lên tử chiến mở đường cho binh lính xông
lên xáp lá cà. Nhưng quân Ân rối loạn không còn theo hiệu lịnh được nữa. Bầy
cáo, sói đã gặp phải đội quân Đại Bàng chủ lực, đầy nanh vuốt với những cú vồ
như sấm sét đánh xuống lũ giặc như địa chấn sụp núi, sụp non. Đại Bàng quân chủ
lực Văn Lang lớp trước ào tới, lớp sau xông lên như muôn nghìn cơn sóng dữ nhấn
chìm quân giặc. Đội quân thiết giáp Văn Lang lượm đẹp đội quân thiết giáp giặc
Ân, vùi hồn chúng sang bên kia thế giới, âm phủ, nhìn binh lính chết chồng lên
nhau thành gò thành đống.
Trịnh
Hoài Điển hoa cả mắt, biết khó mà chống đở liền giục ngựa phá vòng vây tẩu
thoát lao đi vùn vụt. Bỗng ầm một tiếng người ngựa bị dội ngược. Trịnh Hoài
Điển thất kinh, đã thấy một người cỡi ngựa ô, đầu đội kim cô, mình mang giáp
sắt oai phong lẩm lẩm, sát khí đằng đằng. Đó là Huỳnh Trung Thông vị tướng trẻ
tài ba của quân Văn Lang, không để cho tướng giặc trở tay, với đường Đao Đại
Bàng Bắt Rắn cả người lẩn ngựa lướt tới chém xuống như sấm sét. Trịnh Hoài Điển
thất kinh vội dồn hết bình sanh công lực cả chưởng lẩn Đao lên chống đở rắc rắc
ầm ầm kinh thiên động địa. Trịnh Hoài Điển xây xẩm mặt mày. Huỳnh Trung Thông
hét lớn nạp mạng đây với chiêu Núi Ẩn Trong Mây, tức thời kình lực từ Đại Đao
tuông ra ào ào làm cát chạy đá bay hóa thành thiên Đao vạn Kiếm phủ xuống đầu
tướng giặc. Trịnh Hoài Điển biết mình khó sống liền nuốt vội viên linh đơn bá
đạo, tử hoàng đơn là loại linh đơn tà đạo, khi uống vào thần lực tăng lên gấp
năm gấp sáu lần sau đó nổ tung thể xác mà chết với chiêu Tam Quỷ Đoạt Hồn chí mạng
hai bên cùng chết. Huỳnh Trung Thông nào biết về viên linh đơn tà đạo ấy, chỉ
nghỉ rằng tướng giặc uống thuốc trị nội thương. Huỳnh Trung Phong đang thi
tuyển tuyệt chiêu Thiên La Đao Pháp Núi Ẩn Trong Mây kết liễu đời tướng giặc,
nào ngờ chiêu Tam Quỷ Đoạt Hồn như những dãy núi đè xuống Đao pháp, hào quang
lé lên khiếp người phóng thẳng vào người Huỳnh Trung Thông.
Bỗng
có tiếng quát lớn đầy kinh hãi:
Con hảy lùi mau.
Nhưng
không còn kịp nữa rồi hai tiếng sắt nổ đinh tai nát óc, kẻ trúng Đao người
trúng Thương đâm thủng giáp, thủng ngực hai người ngã xuống ngựa tại chổ, thế
là hồn lìa khỏi xác, kẻ chầu trời, người châu âm phủ. Huỳnh Trung Phong ôm xác
con đầm đìa nước mắt.
Giặc sắp chết vẩn còn đòn chí mạng
Lúc sắp thành, mầm họa vẩn kề bên
Đường cảnh giác, càng về sau càng lớn
Thắng giặc rồi, càng cẩn thận càng hơn.
Chiến
trận vẩn còn rền trời, rền đất, Huỳnh Trung Phong ngẹn ngào uất hận nhìn giặc
thù tức giận thét lên:
Tiến lên tiến lên quét sạch quân thù, vùi thây
chúng xuống tế hồn dân ta.
Thế
là quân Văn Lang ùa tới chém thôi là chém đạp nhầu quân Ân như đạp bùn, đạp rác
nát bấy như tương dẹp lép như con mắm mòi.
Đây
nói về Ly Tử Càng bị hỏa công tiêu diệt chết binh lính hơn nữa, lại không có
đội quân thiết giáp chống trả, bị tên bắn chết chật cả sông. Biết mình khó
chống lại, liền bỏ ngựa bỏ giáp ẩn trốn vào loạn quân, dùng thuật Kinh Công
thượng thừa bỏ binh lính chạy trốn mất tăm, binh lính như rắn mất đầu dẩm đạp
lên nhau mà chết. Quân Văn Lang đang sôi sục căm thù hăng máu xông vào giặc như
bão táp phong ba chém thôi là chém như mưa trút, như thát đổ xuống đầu quân
giặc, ôi thôi còn gì.
Thơ
rằng:
Văn Lang truyền thống anh hùng
Phải đâu cóc nhái ung dung đạp càn
Văn Lang dòng giống Tiên Rồng
Sấm rền chớp giật cuồng phong dậy trời
Quân Ân tan xác tàn đời
Thất kinh hồn vía hết thời huênh hoang
Nhìn xem quân giặc ra tương
Nghìn năm vang mãi tiếng quân Tiên Rồng.
Đây
nói về chủ soái Mao Toại đang ung dung tự đắc, khi nghe chiến trận dù xảy ra
lẩm bẩm:
Quân Nam ẩn mình tài như thế quả nhiên hiếm
thấy. Nhưng chúng sẽ làm gì được ta với 2 nghìn chiến thuyền, 20 vạn quân tinh
nhuệ này, nếu lần này tấn công ta không phải loài ếch nhái cũng là loài dê,
heo, gà, chó mà thôi.
Đến
khi nhìn thấy lửa dậy khắp trời bè trôi lúc nhúc thời thất kinh hồn vía, loáng
cái lửa dậy đỏ sông, lớp bè ở trên trôi xuống lúc nhúc ngọn lửa bốc cao cuồn
cuộn lao vào thuyền giặc, thuyền dồn chạy mắc vào cọc trận ở 2 bên lòng sông,
bè lửa vì thế đốt cháy thuyền giặc quá dễ dàng, bè lửa nhỏ hai bên lòng sông
lúc nhúc chui ra ngắm quân thù mà xơi, thế là thuyền giặc dồn nhau kẹt cứng thi
nhau bốc cháy. Quân Ân hoảng khiếp thi nhau nhảy xuống sông rừng Lạc Hồn Âm U
vốn không một bóng người, nhưng giờ đây quân Văn Lang túa ra đông như kiến, đội
quân thiện xạ lợi hại vô cùng, đội quân chắn tên tài tình hửu hiệu, lớp trước
bắn rồi lùi lại, lớp sau tràn lên xạ thủ, lao tên cứ thế tuông ra như cuồng
phong vũ bão, đội quân tiến thối biến
hóa vô cùng.
Mao
Toại nhìn binh lính trúng tên, trúng lao chết la chết liệt, phần thì bè lửa mỗi
lúc một nhiều, không còn con đường nào khác hơn là đi vào tử lộ tìm con đường
sống. Bằng ra lịnh cho đội quân thiết giáp phá cọc trận xông vào tử chiến, làm
giảm bớt áp lực, tên lao quân Nam trút xuống như mưa. Cho binh lính liều mạng
lặng xuống sông kéo bè lửa ra xa thuyền, phá vòng vây hỏa công mở đường tẩu
thoát.
Nói
về đội quân thiết giáp phá vỡ cọc trận thuyền giặc và vào bờ xông lên tử chiến.
Nhưng làm sao chống trả nỗi lòng căm thù giặc của binh lính Văn Lang, có cơ hội
là trút xuống như cơn sấm sét, lớp giặc nào xông lên bờ thời lớp đó ngã xuống.
Nói
về thuyền giặc một số chèo ngược dòng thoát ra khỏi trận hỏa công chạy thục
mạng. Mao Toại bổng thấy thuyền quân Nam xuất hiện rượt đuổi theo vô cùng kinh
hãi, liền hối thúc binh lính chèo bán sống bán chết thoát khỏi nanh vuốt tử
thần đang gấp rút bám theo. Chừng không còn nghe chiêng trống dậy trời quân Nam
đuổi theo nữa, thời thuyền giặc đã nhìn thấy eo Tử Thần. Mao Toại còn chưa hoàn
hồn, thấy eo Tử Thần, rừng Âm U thời sợ hãi liền cho người phát tín hiệu màu
xanh nơi eo Tử Thần cũng bắn pháo màu xanh đáp trả. Eo Tử Thần bắn lên hai quả
pháo hiệu màu xanh báo hiệu nơi đây an toàn, để cho chắc ăn Mao Toại lại cho
phát tín hiệu lần nữa, nơi eo Tử Thần cũng phát tín hiệu y như vậy. Đến lúc này
Mao Toại cùng binh lính giặc Ân còn sống sót mới hoàn hồn trở lại, thấy người
mệt lả quậy không nỗi ê ẩm đau nhứt cả mình nằm lăng ra mà thở.
Mao
Toại liền điểm quân còn trên dưới 1 vạn 2 nghìn, chiến thuyền giờ đây chỉ còn
hơn bảy mươi chiếc, thời than vắng thở dài:
Trời hại ta rồi.
Nghỉ
đến cảnh binh hùng tướng mạnh thuyền nối đuôi nhau trùng trùng điệp điệp giờ
đây chỉ còn vạn quân vỏn vẹn hơn bảy mươi chiến thuyền thời âu sầu rụng rời tay
chân. Mao Toại muốn tự tử đi cho rồi, nhưng nghỉ đến em gái đầy khôn ngoan. Mao
Ly Hương sẽ che chở cho ông ta thoát chết trước nanh vuốt Vương Gia, càng nghỉ
Mao Toại càng buồn chán, trước đây hùng hổ bao nhiêu, khoác lác bao nhiêu, thời
giờ đây như bánh xe xì hơi xẹp lớp hết hăng hái, mặt xìu xuống bấy nhiêu.
Mao
Toại nghỉ: Không ngờ Nam Văn Lang lại có người tài ba đến xuất quỹ nhập thần
đến thế, phá được thủy la xà chiến của ta quả là khủng khiếp, nhưng xem ra cái
tài đó chưa đạt đến tuyệt đỉnh, nếu không ta sẽ chết bỏ mạng nơi đây, tại eo Tử
Thần này.
Để
giảm bớt sự chèo chống của dòng nước đang chảy xiết giữa dòng sông, thuyền tấp
vào hai lòng sông để đi, thuyền đi rất chậm vì binh lính còn sức đâu mà chống
chèo cho nhanh được, phần thì đói bụng, phần thì rời rã tay chân, quân Ân chỉ
muốn nằm lăng ra để nghỉ, nhưng nơi đây vẩn còn bất ổn, chừng nào qua khỏi eo
Tử Thần mới thật sự an tâm. Thuyền vừa tới eo Tử Thần thời mặt trời sắp lặng
xuống núi, sương mù bắt đầu phủ xuống âm u, vài con cú mèo kêu lên vừa rợn
người, vừa rợn xương như báo hiệu điều không lành sắp xảy ra.
Mao
Toại có cảm giác ớn lạnh rợn người và lảng vảng đâu đây hồn thiêng quân Nam đã
bao vây chật kín, nhưng nhìn thấy 4 chiến thuyền quân Ân lờ mờ ở đó, pháo hiệu
cờ xí đều là của mình nên lấy làm an tâm. Mao Toại nghỉ thủy âm cọc trận quân
Nam đóng hai bên lòng sông, còn ở đây thì không có, có lẻ ta đã bị ám ảnh sanh
ra nghi nghờ quá mà thôi và ung dung lội ngược dòng nước tiến mỗi lúc càng sâu
vào eo Tử Thần, màn sương u minh dày đặc, ánh trăng đục bạc làm tăng thêm vẽ kỳ
bí nơi đây. Thuyền chầm chậm tiến gần đến 4 chiếc thuyền neo đậu giữa sông.
Thuyền
đang đi bỗng đụng phải cọc chạy không được nữa. Binh lính giặc la lên:
Cọc cọc, cái gì cọc trận.
Binh
lính giặc Ân hồn bay phách lạc, 4 chiếc thuyền neo đậu giữa sông bỗng bắn lên
pháo hiệu tử chiến, tức thời quân reo dậy đất, ngựa hí vang trời.
Thơ
rằng:
Quân Ân mệt lả cả người
Qua cơn thoát chết tưởng thời bình yên
Nào hay họa đến liên miên
Thoát ra miệng hổ, thời liền miệng beo
Sức đâu mà chống mà chèo
Ác gieo ác gặp bao điều xưa nay
Kinh hoàng thuyền vội ra khơi
Mắc vào cọc trận ôi thôi kinh hoàng
Mưa tên bão giáo ầm ầm
Giặc Ân lớp lớp gục nằm chật thây
Xâm lược kết quả là đây
Giáo gươm vùi dập tan thây chẳng còn
Hồn thiên tử sĩ đăng đàng
Vùi chôn lũ giặc xuống đường âm ti
Tử Dương liệt sĩ mãi ghi
Vùi chôn quân giặc nỗi thi anh hùng.
**************
PHẦN 19
Nói
về quân Ân phát hiện cọc trận thời hồn phi phách tán, thấy pháo hiệu tử chiến
bắn lên từ thuyền thời khiếp hoảng, chưa kịp làm gì thời nghe quân reo dậy đất
ngựa hí vang trời, tên lao xé gió ầm ầm trút xuống giữa lòng sông, cọc trận đã
đóng thuyền qua lại không được, ra khơi không được đúng vào tầm của tên lao
tuông ra trút xuống như cuồng phong vũ bão, quân Ân còn sức đâu nữa mà chống
trả, thế là thây người ngã đổ như chuối bị chặt. Khúc sông Tử Dương vốn đã hẹp,
thuyền giặc bì cọc trận chặn đứng không cho thuyền lui ra tránh giáo tránh tên,
tiến vào bờ thì không nỗi, chỉ còn cách chống trả được lúc nào hay lúc nấy.
Thuyền bị mắc kẹt ở 2 bên tiếp ứng nhau không được lại vừa tầm bắn của giáo,
lao, tên tuông ra, quân Ân chết thôi là chết, tiếng rú tử nạn ai nghe thấy cũng
phải rởn óc kinh hoàng.
Mao
Toại đã biết mình sa vào bẩy lưới của địch, trong lúc binh tàn lực kiệt thời
khó mà chống đở nỗi liền dở thuật kinh công thượng thừa bay lên như con Đại
Bàng, vượt qua làng tên mũi giáo nhắm hướng Bắc tẩu thoát, chân chưa chấm đất
đã thấy người xuất hiện bao vây. Thì ra đó là năm vị đại cao thủ thuộc hàng
nhất nhì nước Văn Lang. Chủ đích là năm đại cao thủ nầy luôn luôn theo dõi chủ
soái của giặc để triệt hạ.
Bổng
thấy Mai Đức Thọ phi ngựa tới thét lớn:
Tướng giặc chạy đi đâu, để cái đầu lại đã.
Năm
vị cao thủ Thấy Mao Toại đáp xuống tức thời đồng loạt ra chiêu. Năm đạo sắc
quang chớp tới. Mao Toại chẳng nói chẳng rằng thanh Long Đao chém tới vang ra
tiếng sấm sét kinh người. Năm người cao thủ đã có lệnh dặn trước khi đã ra tay
thời hết sức bình sanh hạ thủ, vì Chủ Soái tướng giặc vô cùng lợi hại. Cơ trí
hơn người võ công cái thế. Chỉ nghe ầm ầm đùng đùng đinh tai nhứt óc. Cuồng
phong dậy trời các bay đá chạy. Năm cao thủ với những đoàn quyết tử. Đao kiếm
lao vào đối thủ nhanh như chớp.
Mao
Toại liền dỡ tuyệt chiêu Ngũ Lôi Đoạt Mệnh với tất cả bình sanh công lực, ngũ
lôi sấm nỗ sét rền xé mây. Ầm ầm trời đất rung rinh. Đinh tai nhứt óc kinh
thiên ầm ầm. Mao Toại máu mồm hộc ra từng ngụm. Năm người kia đã bị thương nặng
lão đảo muốn ngã.
Mai
Đức Thọ thất sắc:
Quả lợi hại, quả lợi hại.
Mai
Đức Thọ không để cho Mao Toại có thời gian hồi phục công lực. Liền ra lệnh cho
đội kỵ sĩ thiết giáp tấn công. Còn binh lính bao vây lớp lớp. Được lệnh đội
quân thiết giáp phi ngựa xông vào tấn công liên hoàn vô cùng lợi hại. Mao Toại
liền vận luồng chân khí Kim Quang chống trả, nhưng được bao lâu, thương đâm,
đao chém, tên bắn, giáo xuyên, người ngựa liên miên tấn công tới tấp, tên sắt,
tên đồng bắn xuyên thủng giáp. Mao Toại bị thương trầm trọng khó bề chống cự
được lâu.
Bỗng
nghe tiếng ra lệnh của Mai Đức Thọ:
Cuồng phong trận tấn công.
Thế
là đội quân thiết giáp liền thay đổi chiến thuật, người ngựa đao kiếm xoáy tròn
như cuồng phong vũ bão, núi đao kiếm thét gầm trút xuống đầu Mao Toại, thây Mao
Toại bị băm bấy như tương.
Có
bài thơ rằng:
Ôi thôi Mao Toại còn gì
Sa vào cuồng trận thân hình nát tương
Cuộc đời xâm lược ai thương
Phanh thây xẻ thịt nhớp nhơ cuộc đời
Hồn linh vùi mãi ngục tù
Đưa quân xâm lược để rồi vùi chôn
Xâm lược nào phải lanh khôn
Ác gian hung bạo cuồng ngông họa đầy
Ngựa người dẩm đạp tơi bời
Cuộc đời xâm lược, cuộc đời ra chi.
Nói
về Mao Ly Hương cùng Vi Tử Khải má tựa vai kề ngày đêm vui với vẻ với nhau chờ
tin thắng trận, chờ ngày xưng Bá xưng Vương làm Vua làm Chúa nước Văn Lang với
ngón nghề khêu gợi đầy ma lực. Mao Ly Hương càng ngày càng làm cho Vi Tử Khải
chết mê chết miệt, si mê, đến nỗi đến nỗi chỉ vắng bóng Mao Ly Hương vài giờ
thời chịu không nỗi.
Vi
Tử Khải nhìn Mao Ly Hương nói:
Khi ta lên làm Hoàng Đế Nước Nam, thời nàng
sẽ là Hoàng Hậu Thánh Cung, nàng cùng ta thi nhau hưởng lạc, trị vì thiên hạ
mặc sức mà cởi gió đạp mây, làm mưa làm gió khi ấy nàng muốn gì mà chẳng được.
Mao
Ly Hương nghe Vi Tử Khải nói hứa như vậy thời mừng thầm nghe sướng lỗ tai, mở
cờ trong bụng, với điệu nghệ Hồ Ly, Mao Ly Hương vuốt ve Vi Tử Khải, làm Vi Tử
Khải hồn bay lên chín tận tần mây. Nhưng liền theo đó bị một gáo nước lạnh tạt
vào mặt.
Mao
Ly Hương nói:
Chỉ có một nước Nam mà hai vua sao? Còn Vi
Tử Điển không lẽ Vi Tử Điển không có ý xưng Vương nước Nam.
Vi
Tử Khải nghe Mao Ly Hương nói thế thời ngớ người ra ngẩm nghỉ: Không lẽ một
nước mà có hai Vua.
Mao
Ly Hương thấy Vi Tử Khải ngớ người như vậy liền phì cười nói:
Nếu được làm Vương nước Nam, thời cũng phải
dưới quyền kiểm soát của ÂN THỌ VƯƠNG bệ hạ mà thôi, Vương Gia cũng chỉ là Nam
Quốc chư hầu làm gì được mà xưng Vương xưng Đế. Muốn xưng Vương xưng Đế phải là
con cáo già đầy móng vuốt sắc nhọn, đưa cái lợi đến cho người ta nhưng sau cái
lợi đó thuộc về mình, để đạt được mục đích, không có con đường nào tốt hơn là
con đường tính toán sắp xếp đâu vào đấy ngay từ lúc nầy.
Những
lời nhắc nhở của Mao Ly Hương có nhiều hàm ý sâu xa. Vi Tử Khải nghỉ: Ngày
trước sở dĩ ta không được chọn kế vị ngai vàng là vì ta ngu muội hơn Ân Thọ,
không biết cách nào làm cho Phụ Vương chú ý, quan tướng nể phục, nên ta bị loại
bỏ khỏi ngai vàng, nhưng hôm nay thì khác, ta phải giành lấy tất cả ưu thế
thuộc về ta.
Nhìn
ánh mắt của Vi Tử Khải sáng lên một cách kỳ lạ, Mao Ly Hương liền hiểu ý mừng
thầm: Có lẽ ta đã nhìn đúng con người nầy, con người mà ta đã chờ đợi từ lâu,
sẽ làm cho ta thỏa thích hoàn thành ước vọng của ta.
Với
ngón nghề độc đáo, Mao Ly Hương ỏng ẹo gợi cảm, muôn tâu Quốc Vương bệ hạ:
Thần thiếp mời bệ hạ vào bồng lai an nghỉ.
Vi
Tử Khải nghe Mao Ly Hương xưng hô với mình là Quốc Vương bệ hạ, thời sung sướng
không gì bằng nghe như mật rót vào tai, trúng phốc tim đen sướng cả người. Nhìn
bộ dạng mảnh mai liễu yếu đào tơ, đường nét sắc sảo bút thần tạo hóa khéo vẽ
không có chỗ để chê, trước sắc đẹp lộng lẫy thiên kiều bá mị của Mao Ly Hương.
Vi Tử Khải như vừa uống phải mấy ly rượu làm choáng váng cả linh hồn, hai người
nhìn nhau như muốn ăn nuốt lẫn nhau. Vi Tử Khải như cơn lốc ôm xốc Mao Ly Hương
biến vào Vương Quốc bồng lai.
Đương
phút chèo thuyền gấp rút, thời bỗng bên ngoài có người hớt hãi kêu lên, nói với
mấy con hầu nữ:
Hãy vào bẩm với Vương Gia có tin khẩn cấp,
có tin khẩn cấp.
Mấy
con hầu nữ bực mình nói:
Vương Gia đang leo núi.
Tên
lính ngơ ngác chẳng hiểu chi cả, thấy bộ mặt ngốc nghếch của tên lính, bọn hầu
nữ bụm miệng nhìn nhau phì cười liền nói:
Vương Gia đang ngủ, khi nào dậy ta sẽ bẩm
báo ngươi ra kia ngồi chờ.
Tên
lính báo tin la lớn:
Các ngươi hãy vào báo khẩn cấp với Vương Gia
là 20 vạn quân đi đời về chầu âm phủ hết rồi, Mao Toại chủ soái đã bị phanh
thây xẻ thịt làm món đồ xơi cho quạ cho kiến.
Bọn
hầu nữ nghe như sấm nổ bên tai hớt ha hớt hãi chạy đi báo tin cho Vương Gia,
tới cửa phòng bọn hầu nữ ngập ngừng nhưng rồi cũng phải lên tiếng:
Bẩm Vương Gia, bẩm Vương Gia, có tin khẩn
cấp, có tin khẩn cấp.
Vi
Tử Khải đang lúc say sưa chìm đắm trong mê hồn trận, đang ra sức chèo chống tốm
vắc những chùm hoa đang nở rộ, bị người phá đám, nỗi cáu tính ra chém quách đi
cho rồi, đến khi nghe tin Mao Toại tử nạn, 20 vạn quân đi đời thời tưởng mình
nghe lầm, đến khi nghe lại lần nữa, thời kinh hãi bủn rủn tay chân ngồi dậy
không nỗi. Nói về Mao Ly Hương đang cố gắng phun hương tỏa phấn nở những chùm
hoa rực rỡ tạo nên sự hấp dẩn của mùa xuân, những con ong hảo ngọt, con bướm mê
hương say đắm vào mê hồn trận, để những chùm hoa đầy gai nhọn có cơ hội châm
chút hút hết tinh lực đối phương, những con ong, con bướm dại dột và đầy sự
ngốc nghếch này. Đang lúc vui vẽ đầy sự khoái cảm liền nghe tin dữ Mao Toại bị
quân Nam xẻ thịt thời giật mình khiếp hoảng, mặc áo quên cả cài phi phóng nhanh
ra cửa hỏi tên lính vừa báo tin dữ.
Vừa
gặp tên lính Mao Ly Hương quát tháo:
Chuyện gì ngươi nói lại ta nghe.
Thì
ra đây là 1 trong 10 tên lính thám báo do Vi Tử Khải phái đi để nắm tin tức từng ngày từng giờ,
không hiểu vì sao chỉ thấy một tên trở lại báo tin dữ còn những tên kia không
rõ nơi đâu. Tên lính thấy Mao Ly Hương như quỷ dữ xuất hiện hung tợn đến rợn
người như sắp ăn thịt xác con mồi, thời sợ hãi run lên cầm cập, miệng lắp bắp
nói không ra tiếng. Mao Ly Hương đang lúc mất bình tỉnh, thấy bộ điệu ấp a ấp
úm của tên thám báo liền nỗi xung thiên tống cho một chưởng tên lính vỡ đầu
chết ngay tại chỗ.
Lúc
ấy Vi Tử Khải có mặt như cản ngăn không kịp liền la lớn:
Sao nàng lại giết con tin.
Mao
Ly Hương lúc này mới hoàng hồn bình tỉnh, thấy việc làm của mình quá đáng liền
quỳ xuống xin Vương Gia tha tội, Vi Tử Khải chỉ biết lắc đầu vì hiểu rõ Mao Ly
bị cú sốc quá nặng mới làm ra nông nỗi nầy. Đang lúc gây cấn đầy sự nghi vấn
nóng hổi chưa rõ đâu ra đâu, thời có chiếc thuyền con từ xa lao vụt tới, đó là
thuyền thám tử do Vi Tử Khải phái đi nắm bắt thông tin tình hình chiến trận,
thuyền vừa cập, quân dò thám đã đều bị thương nặng máu me đầy người.
Mao
Ly Hương nhận ra người ấy chính là hầu cận số một của Mao Toại, liền hỏi Tào
Chu:
Việc gì xảy ra thế?
Tào
Chu liền kể lại tất cả rồi nói:
Quân Văn Lang vô cùng lợi hại, như quỷ như ma
không thể nào đón ra được.
Có
lẽ Tào Chu bị thương quá nặng thời kể xong cũng trút hơi thở cuối cùng. Vi Tử
Khải nghe xong khiếp hãi kinh hoàng sắc mặt không còn chút máu, giấc mộng Bá
Vương đã vở, sững sờ rồi than vắng thở dài nói:
Trời hại ta rồi, Trời hại ta rồi.
Mao
Ly Hương thời nghiến răng trợn mắt nói:
Ta phải trả thù, ta phải trả thù bằng mọi
giá bằng tất cả.
Nói
với Vi Tử Khải rằng:
Bẩm Vương Gia, chúng ta còn 10 vạn quân, 5
vạn quân bộ binh, 5 vạn quân thủy binh hơn 300 chiến thuyền nhân tài vẩn còn
nhiều, hơn nữa quân ta các mũi đã tiến vào đất Văn Lang chỗ này thất bại, nhưng
chỗ khác tất thắng, thầy thiếp là chúa tể của loài yêu tinh, thần thông pháp
thuật trùm Vũ Trụ. Nhưng muốn cầu thầy giúp sức, thời phải tìm cho ra 100 trẻ
sơ sinh, 50 trai 50 gái để thầy luyện Âm Dương Yêu Thuật Thần Công thời mối hận
nầy trả được, quân Nam xóa sổ đi đời.
Vi
Tử Khải như người chết đuối vớ được cái phao liền hỏi:
Nàng nói có thiệt không?
Mao
Ly Hương làm mặt giận:
Thiếp lừa dối Vương Gia để làm gì, đừng nói
là quân Văn Lang, dù cho Phật, Thánh, Thần, Tiên cũng đi đời.
Thế
là Vi Tử Khải giao toàn quyền cho Mao Ly Hương tự quyết định.
**************
PHẦN 20
Nói
về ba anh em Tây Thục Vương, đánh cho quân Ân một trận nên thân, đi tiêu 5
tướng xong đời hơn vạn quân, ăn mừng chiến thắng đầy mình, trông trời mau sáng
để mở thêm trang sử mới.
Đây
nói về Hồ Ma Yêu, chính là con cáo ba đuôi tu luyện nghìn năm thành người, ban
ngày là người ban đêm là quỹ, chuyên bắt đàn bà con gái vùi dập hoa liễu, chơi
chán chê rồi hút máu ăn thịt luôn.
Sơ
yếu tóm tắt lí lịch ngôi vương của Hồ Ma Yêu như sau: Nguyên quân Mủ Đỏ của vị
Vương là Di Hung Nô, vị Vương nỗi tiếng là tay tàn bạo đại ác độc, thường xuyên
ăn thịt kẻ thù, thuộc hạ tướng lỉnh trên dưới đều khiếp sợ không ai dám hó hé
chi cả. Một hôm Hồ Ma Yêu vô tình nhìn thấy một nàng con gái xinh đẹp, đang tắm
ở hồ Hoa Đào, không những xinh đẹp mảnh mai, đường nét khiêu gào bốc lửa, đẩy
đà có vẽ rén chắc lắm, với cái tánh đệ nhất dâm ô háo sắc, thời đời nào bỏ qua
liền manh tâm chiếm đoạt về mình, bằng hóa ra con bướm bám sát bay theo tìm
hiểu nàng ở đâu. Mới hay nàng là vị hầu thiếp đắc ý nhất của Di Hung Nô, lại
biết Di Hung Nô hôm nay đi săn ở thượng Dương Sơn. Hồ Ma Yêu liền đến đó hóa ra
con nai thật đẹp, dụ Di Hung Nô đến đoạn hồn cốc, một cốc hố đầy bí ẩn sâu
không thấy đáy. Di Hung Nô là tay xạ thủ cừ khôi, lại có sức mạnh tay không bắt
cọp, xưa nay hể bắn là trúng, muốn trúng chổ nào là trúng chổ đó. Di Hung Nô
nghe tiếng động nhìn thấy con nai tơ mập ù mập ú xuất hiện, liền dương cung bắn
một phát, nhưng lạ thay mũi tên không trúng đích, con nai như có vẽ thách thức
Di Hung Nô điên lên bắn liền ba phát lại trược sạch, nỗi xung điên phóng ngựa
rượt theo bắn lia bắn lịa nhưng nào có trúng đâu, Di Hung Nô rượt theo quát
tháo ầm ỉ không lẻ mày là con nai có phép, cuộc rượt đuổi cũng khá lâu cho đến
khi con nai nhảy xuống hố mất dạng. Di Hung Nô còn đang bực tức, thời tiếng nói
sau lưng vang lên lạnh buốt. Ngươi đã đến ngày tận số, Di Hung Nô quay người
lại, thời kinh hãi người nầy giống mình như đúc, chưa kịp hoàng hồn thời một
tia chớp lé lên, Di Hung Nô rú lên thê thảm sau đó là một cái rầm, Di Hung Nô
đã bị chưởng lực đánh văn xuống đoạn hồn cốc, nở nụ cười đắc ý Hồ Ma Yêu đoạt
vợ đoạt luôn những gì mà Di Hung Nô đã gầy dựng, đúng là một con cáo già không
làm mà tận hưởng. Từ khi Ân Thọ lên ngôi Hoàng Đế, thời yêu tinh cùng khắp, ở
cung, ở điện, ở hang, ở động lần lượt ra phò mở ra phong thần là giai đoạn hưng
thịnh tột đỉnh của phong kiến Thần Giáo, chủ nghĩa độc tôn, độc trị thống trị
thiên hạ, Hồ Ma Yêu là một trong số yêu tinh ra phò ÂN TRỤ. Nói đến xâm lược
Văn Lang hay nói đến làm chủ Địa Long Vũ Trụ, thời yêu tinh cùng khắp đều thích
thú mơ mộng, cuộc phát động xâm lược nước Văn Lang, ÂN TRỤ là cuộc phát động
hợp sở thích của các loài yêu tinh có cơ hội trổ tài nanh vuốt ác đạo của mình.
Hồ Ma Yêu chọn 3 tướng yêu tinh đắc ý nhất của mình, đã từng làm mưa làm gió
khắp nơi, đó là 3 con quỹ tu luyện thành người.
1: Là Mãng Xà Quỷ.
2: Là Bò Cạp Quỷ.
3: Là Trăn Quỷ
Vì
tu luyện chưa đạt đỉnh nên mặt mày còn rất hung tợn, cùng 3 nghìn quân ra trận.
Trên
thành cao Thục Mân, Thục Ren, Thục Cương ba vị phu nhân cùng 3 cha con An Lạc
Sơn, thấy giặc Ân đến khiêu chiến phỏng độ hơn 3 nghìn quân thời kinh ngạc.
An
Lạc Điền là người già kinh nghiệm sinh nghi nói:
Quân Ân có diệu kế chi chăng, quân ít mà
tướng thì nhiều.
Thục
Cương có vẻ xem thường nói:
Để em ra quét sạch lũ rác rưỡi nhơ nhớp đó
cho rồi.
Thục
Mân cản:
Tướng giặc đang khiêu chiến kia chính là Hồ
Ma Yêu, không những võ công kỳ bí, mà còn có thanh bảo kiếm chém đồng chém sắt
như chém bùn. Thục Ren chút nữa là mất mạng dưới thanh bảo kiếm này.
Liền
khuyên can:
Chúng ta hãy tính cách đối phó khác, tránh
đi những thiệt hại không đáng có.
Thục
Cương tự ái nói:
Hai anh xem thường em quá, đánh không lại là
chạy có chi là khó.
Biết
không thể ngăn cản cái tánh ương bướn hùng khí của Thục Cương. Thục Mân, Thục
Ren không cản nữa. Thục Cương điểm 5 nghìn quân tinh nhuệ ra trận. Thục Mân,
Thục Ren điều động 3 nghìn quân nữa lượt trận theo sau, khí thế áp đảo giặc Ân.
Thục
Cương hăng hái cỡi ngựa xông lên chỉ Hồ Ma Yêu hét lớn:
Lão Yêu Tinh cuồng ngông kia mau ra đây nạp
mạng.
Lão
Ma Yêu nỗi nóng quát tháo:
Thằng nhãi ranh, ta không những giết ngươi
mà còn bắt cả hồn ngươi nhốt vào Đoạn Hồn Cốc cho ngươi biết thế nào là hỗn láo
đối với ta.
Lão
Ma Yêu ra lệnh
Cạp tướng quân nghe lệnh: Có thuộc hạ, tướng
quân ra xơi thằng nhãi đó cho ta, tuân lệnh.
Cạp
Tinh cỡi quái thú, mình ngựa đầu chó phi ra nhằm Thục Cương đánh tới, vũ khí
Cạp Tinh vô cùng quái dị lúc thì Đao lúc thì Kiếm, lúc thì liên hoàng móc xích,
biến hóa đâm chém móc giật lợi hại vô cùng. Thục Cương nhờ sức mạnh Trời ban,
Thanh Long Đao như Rồng bay Phụng múa chém xuống đầu Cạp Tinh ầm ầm. Cạp Tinh
nào chịu kém, nào chống đở, nào ra đoàn nhanh như chớp, véo véo đùng đùng, rét
rét ầm ầm, rền trời rền đất đinh tai nhức óc, xáp vào lui ra liên miên dồn dập,
ngựa hú rồm rộp gió bụi mịt mù, Đao xuống, gươm lên choảng nhau xoay vần gào
thét, cuồng phong xoắn ốc cây cối đổ nghiêng nhìn thấy khiếp kinh, rợn người,
rợn vía. 50 hiệp nhanh chóng trôi qua nhưng hai bên chưa ai giành được phần
thắng.
Thục
Cương hét lớn dỡ chiêu tuyệt kỹ cuối hầu lấy mạng Cạp Tinh, Thanh Long Đao liền
hóa ra đạo hào quang chiếu tới Cạp Tinh. Cạp Tinh biến mất. Thục Cương kinh hãi
liền nghe tiếng gió sau lưng chém tới. Thục Cương lách người né tránh, Thục
Cương tránh không được đành trúng vào người như trời gián. Nếu không nhờ sức
mạnh Trời cho áo giáp dày chắc thời kể như toi mạng rồi. Thục Cương bị chấn
thương hơi nặng, quày ngựa chạy thục mạng. Cạp Tinh nào chịu để con mồi chạy,
rượt theo lấy mạng Thục Cương trước cảnh ngàn cân treo sợi tóc Thục Cương chỉ
còn chờ chết.
Thời
tiếng quát lanh lảnh nổi lên:
Yêu Tinh hỗn láo xem đây.
Ầm
ầm đinh tai nhức óc. Thái Nga bị dội ngược có lẽ đã bị chấn động nội thương
miệng ra máu sắc mặt tái ngắt, quày ngựa bỏ chạy thời bị con Bò Cạp cắn phải,
đau nhức không chịu nỗi, suýt chút nữa là té nhào xuống ngựa.
Cạp
Tinh không cần rượt đuổi đắc ý nói:
Người thường chết ngay tại chỗ, người có
Thiên Tư đề kháng lớn võ công nội lực thâm hậu quá 3 ngày thời đêm chôn.
Thục
Mân, Thuc Ren kinh hãi xua quân tiếp ứng, Cạp Tinh nỗi nóng vỗ vào đầu quái thú
đầu chó 3 cái, tức thời quái thú đầu chó phun ra một Đao hắc phong mù mịt làm
xây xẩm mặt mày quân Văn Lang. Quân Ân lấn thế ào tới chém quân Văn Lang như
chém chuối, 8 nghìn quân chỉ còn lại 3 nghìn thây phơi lớp lớp.
Vào
thành rồi mà Thục Mân, Thục Ren lúc nào cũng than vắng thở dài:
Không ngờ tướng giặc Ân lại lợi hại như vậy,
liệu tính làm sao đây, khi Thái Nga đã vô phương cứu chữa, còn chống trả lũ
giặc Ân thời không đủ sức, có lẽ phải cố thủ thành chờ quân cứu viện rồi mới mở
hướng tiếp theo.
**************
PHẦN 21
Chiến trận rền vang suốt đêm ngày
Ngoại xâm rầm rập phá giang Tây
Nguy cơ từng phút, thành sắp mất
Quân Ân lớp lớp, tiến bao vây
Phép lạ còn trông, cơ tạo hóa
Hồn Thiên sông núi, chuyển vòng xoay
Con đường trung hiếu, luôn phía trước
Cố thủ chờ mong, đão ngược này.
Nói
về quân Văn Lang thất bại thảm thê, Thái Nga bị Bò Cạp Tinh cắn nằm mê mang như
chết, không biết ra đi lúc nào. Thục Cương nhìn vợ mặt mày thâm tím, lòng đau
như ai xé, nước mắt nhỏ ròng ròng, ai nhìn thấy cảnh thương tâm ấy cũng đau
lòng. Còn ngoài thành quân Ân mỗi lúc kéo đến mỗi đông, trùng trùng điệp điệp khác
gì Thiên La Địa Kiếm công phá thành dữ dội. Quân Văn Lang cố thủ, dầu sôi lửa
bỏng, tên, lao, cây, đá chống trả như mưa, quân Ân tổn thất nặng nề, hai ngày
hai đêm vẫn chưa phá được thành, cuối cùng thu quân nghỉ kế khác. Quân Ân đặt
mật thám đầy khắp bao vây kiểm soát ra vào động tịnh, thành Tây Giao Châu hết
sức nghiêm ngặt.
Màng
đêm buông xuống từ nơi đường hầm bí mật, cây cối um tùm, một bóng đen nhanh hơn
con sóc luồn lách trong màng đêm u tối, phi thân vùn vụt nhắm hướng Tam Giang
Tây Châu lướt đi lúc ẩn lúc hiện như một bóng ma. Mặt trời lố dạng, ánh bình
minh trở lại hương quê, chim trống, mái vui hót tình thề. Một bóng người đã mệt
lã hình như sắp quỵ xuống, nhưng con mắt bỗng sáng lên, kia rồi kia rồi Tam
Giang Tây Châu kia rồi, người ấy không ai khác hơn là Thục Ren, những nhiệm vụ
đặc biệt quan trong nầy, không Thục Mân thời Thục Ren, ngoài hai người nầy
không ai là đảm trách được. Thục Ren nghỉ mệt xả hơi, uống nước dưỡng sức, thấy
sức lực hồi phục hơn nữa liền dùng thuật Kinh Công thượng đỉnh lao đi, không
bao lâu thời tới doanh trại Tam Giang Giao Châu.
Nói
về Tây Thục Hầu Vương nhận lảnh thanh Kim Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm thống lảnh
30 vạn quân chia làm 3 ngã trấn giữ 3 thành.
1: Tây Giang Châu
2: Dương Giao Châu
3: Kiến Giao Châu
Còn
Tam Giang Tây Châu là bộ tổng tham mưu chỉ huy là địa phận chiến lược quan
trọng, nối liền thông tin giữa các Châu các Bộ các Thành với nhau. Tây Thục
Vương Gia cùng 1 vạn quân chủ lực đóng đô ở đây, tổng tham mưu điều hành cuộc
chiến.
Đương
lúc nghiên cứu tình hình chiến địa thời có quân vào báo:
Bẩm Vương Gia có Thục Ren Tây Bát Tử ở thành
Tây Giang Châu đến.
Ông
hối hả cho Thục Ren vào, thấy con bơ phờ ông kinh hãi hỏi:
Chuyện gì xảy ra thế?
Hỏi
thời ông cứ hỏi nhưng ông cũng đoán biết việc không lành đã xảy ra đối với các
con ông rồi. Thấy nỗi lo lắng người cha đối với các con. Thục Ren vô cùng cảm
động, thấy mình luôn luôn được che chở trong những lúc khó khăn, tình phụ tử
luôn là thế, tình cha con muôn đời trước muôn đời sau cũng thiêng liêng sâu đậm
như nhau. Ông nghe Thục Ren kể đến đâu thời nước mắt ông rơi đến đó, trước tình
thế vô cùng nguy ngập, ông tính tới nước cờ giải cứu cho thành Tây Giang Châu
cùng 10 vạn đại binh ở đó.
Tây
Thục Vương Gia đang ráo riết giải bài toán khó, thời có quân vào:
Bẩm Vương Gia quân Ân đang xoay chuyển chiều
hướng trăm mưu nghìn kế triệt hạ thành Tây Giang Châu.
Còn
gì nữa không? Vương Gia hỏi. Dạ hết. Cho người lui. Thục Vương Gia có lẽ đã
giải xong bài toán khó liền viết mật thư đưa cho Thục Ren nói:
Con đem mật thư này nhanh chóng gởi cho Đích
Tôn Vương Tử Diệp Lang đang đóng quân ẩn tại rừng Tiên Du, dưới chân Hùng Phong
Sơn, thời có cách giải cứu lật ngược tình thế.
Thục
Ren từ biệt cha, chọn lấy con ngựa tốt nhất phi nước đại không bao lâu thì tới
rừng Tiên Du dưới chân Hùng Phong Sơn. Ngựa đang phi nước đại nhanh như gió cấp
9 cấp 10.
Bổng
có tiếng quát:
Đứng lại.
Ba
người liền xuất hiện đeo mặt nạ lạnh như tiền, Thục Ren nhìn sắc phục không
phải sắc phục của giặc Ân mà là sắc phục của quân Văn Lang hơn nữa đây là địa
phận của rừng Tiên Du.
Liền
xuống ngựa chấp tay thi lễ nói:
Ba vị chớ hiểu lầm, ta là Thục Ren con của
Thục Vương Tây Hầu Gia phái đến xin gặp Đích Tôn Vương Tử.
Nói
xong lấy lệnh bài đưa ra cho ba người. Ba người kia nghe nói người nầy là Thục
Ren tướng quân Tây Thục Hầu Gia có cả lịnh bài Tây Hầu Gia liền chấp tay thi lễ
nói:
Xin tướng công theo thuộc hạ.
Thế
là hai người ở lại, một người dẩn Thục Ren đi. Đi được một hồi thời tới doanh
trại quân Văn Lang, Thục Ren nhìn thấy một ngôi lều lớn hình như đang có chuyện
gì. Cắt ngang dòng suy nghỉ.
Tên
lính dẩn đường nói:
Tướng Công đứng ở đây chờ đợi, thuộc hạ vào
báo cho Đích Tôn Vương Tử rồi ra đón Tướng Quân vào.
Thục
Ren thấy người đó vào trại thời ra liền, chấp tay thi lễ nói:
Đức Tôn Vương Tử mời Tướng Quân vào.
Thục
Ren bước vào lều trại quan tướng trên dưới 20 người vẻ mặt người nào người nấy
uy nghi lạnh người, lại thấy một cỗ quan tài xinh đẹp chỉ dùng cho các bật
Vương Gia.
Thục
Ren thầm nghĩ: Ai thế? Ai nằm trong đó thế? Vì sao mà chết?.
Thục
Ren nhìn thấy Đích Tôn Vương vài lần rồi, nên nhìn thấy là biết ngay liền bước
tới quỳ lạy nói:
Hạ Thần xin ra mắt Đức Tôn.
Diệp
Lang đở Thục Ren dậy hỏi:
Tướng quân tìm ta có việc gì?
Thục
Ren liền kể mọi sự, tình hình bất lợi cho Tây Giang Châu. Diệp Lang nói:
Ta đã biết tình hình Tây Giang Châu đang gặp
khó khăn nhưng ta chưa rõ lắm, may thay tướng quân đến đúng lúc.
Thục
Ren liền lấy mật thư bằng da thú to lớn do cha họa tiết, biểu tượng, hình
tượng, ẩn cảnh, hình cảnh và hàng loạt dấu hiệu ra ni, Diệp Lang trải ra bàn
xem đi xem lại từng chi tiết triết lý sách lượt của mật thư.
Ở
thời kỳ nầy những tấm da thú được coi như là báu vật, tiện dụng nhất trong
sinh hoạt, quần áo chống lạnh, chống nóng, chống muỗi mà còn là nền tản cho nền
giao tiếp văn minh trên mọi lĩnh vực xã hội Văn Lang. Họa tiết văn thơ, chữ
viết tồn cổ điển nhất tồn tại theo năm tháng của nhân loại con người thời bấy
giờ. Chữ viết của nền văn minh Văn Lang gồm 3 phần cơ bản sau đây.
1: Cảnh tượng.
2: Hình tượng.
3: Hình gạch.
Được
họa tiết khéo léo, diễn đạt ý tưởng bằng hình gạch, hình sóng, hình nỗi, hình
chìm v.v...một cách thông minh. Nói ra thời không bao giờ hết nhưng tốm tắt
những mẫu gạch ra ni chính để nghiên cứu. Thể hiện ý qua diển đạt ra ni.
1: Gạch nằm.
2: Gạch đứng.
3: Gạch nằm, gạch đứng chồng ngang lên nhau song
song nhau.
4: Gạch đứng nghiên trái.
5: Gạch đứng nghiên phải.
Từ
ý đơn chuyển sang ý ghép.Từ ý ghép chuyển sang ý liên tưởng. Các gạch biến hóa
tạo hình gạch nghiên trái, nghiên phải giao đầu nhau. Gạch đứng gạch nằm giao
chân nhau. Gạch đứng gạch nằm giao đầu nhau, đối lập nhau.
6: Gạch hình mống hay còn gọi là hình cung.
7: Gạch hình sóng nỗi.
8: Gạch hình tròn nặng đặc chìm.
9: Gạch hình nữa nỗi nữa chìm.
10:
Gạch tròn của hai gạch cung ráp lại.
Nói
tóm lại: Cảnh tượng gồm non sông Tổ Quốc cảnh, quê hương thôn dã thành châu
cảnh, quân Ân xâm lược cảnh, văn hóa nghệ thuật cảnh, thông tin giao tiếp cảnh
hình tượng, như nam, nữ, già trẻ, ốm mập, hung ác, lương thiện cho đến khí cụ
dụng cụ cầm thú được họa tiết một cách khéo léo. Những cảnh tượng, hình tượng,
gạch tượng, ý tượng, hoặc đơn, hoặc ghép, hoặc liên ghép, hoặc ngược, hoặc
xuôi, nối gạch liền gạch, nối hình liền hình, nối ý thành ý tạo ra ý tưởng liên
hoàng văn pháp, làm cho người giao tiếp qua mật thơ hiểu nhau và làm theo ý của
nhau qua thơ từ.
Nói
tốm lại: Cảnh tượng, hình tượng, gạch tượng, ý tượng, là nền văn minh giao tiếp
của nước Văn Lang, lang truyền ra khắp cùng Thế Giới liên quan đến sự văn minh
phát triển sau này. Nền văn minh giao tiếp nước Văn Lang phát nguồn sự giao
tiếp ra ni của người tiền sử từ thời Hồng Hoang rồi đến Hồng Bàng, Hồng Đế hàng
triệu năm về trước. Đây là những biểu tượng sơ khai ra ni Cội Nguồn là nguồn
gốc phát sanh ra các loại chữ sau này cùng khắp Thế Giới. Biểu tượng ra ni của
thời sơ khai thượng cổ.
Nói
về Diệp Lang xem xong mật thơ liền hiểu ý của Tây Thục Vương Gia liền thi hành
diệu kế tiêu diệt quân Ân. Đến lúc này Thục Ren mới nhìn thấy một người con
gái đứng cạnh chiếc hòm, đẹp đến nỗi Thục Ren hoa cả mắt, dụi đi dụi lại 2 - 3
lần. Thục Ren nghỉ con gái nhà ai mà đẹp đến thế, trên đời ta đã nhìn thấy hai
nàng con gái đẹp như Tiên giáng trần, một là con gái An Lạc Điền, Lạc Tiên Tiểu
Thơ, ta cứ ngỡ An Lạc Tiên là người con gái đẹp nhất trần gian không ngờ ở đây
lại có người con gái đẹp hơn Lạc Tiên Tiểu Thơ nữa.
Bỗng
tiếng nói trầm hùng nỗi lên cắt ngan dòng suy nghỉ Thục Ren. Diệp Lang nói:
Thưa đại nhân cuộc chiến đang khẩn cấp tạm
đưa Ngọc Linh Châu đến nơi an nghỉ tạm thời, cho người canh giữ cẩn thận, sau
khi tiêu diệt lũ ngoại xâm thời đưa Ngọc Linh Châu về Phủ an táng theo nghi lễ
cấp Vương Gia.
Ba
cha con Trung Đại Nhân nghe Đích Tôn Vương Tử nói thế thời lấy làm an ủi quỳ
lạy cảm ơn. Đến giờ này Thục Ren mới vỡ lẻ, thì ra đây là con gái của Trung Đại
Nhân, còn người nằm trong hòm kia Ngọc Linh Châu chị của nàng, cuộc đụng độ tử
chiến lừng lẫy với lũ giặc Ân vừa rồi. Thục Ren vô cùng khâm phục lòng dũng cảm
hi sinh vì đại nghĩa ấy, liền bước tới chiếc hòm tỏ lòng sùng kính.
Thục
Ren được Diệp Lang đưa vào phòng dặn bảo đưa mật thư, giao cho Thục Ren đem về
giao cho Thục Mân cùng quan phủ Bố Chánh An Lạc Điền, hành sự theo kế sách
trong thư đã dặn.
Thục
Ren nhận vội phong thơ ra đi, mới vừa ra khỏi phòng thời Diệp Lang kêu lại.
Thục Ren kinh ngạc:
Đích Tôn có điều chi dạy bảo.
Diệp
Lang nói:
Bây giờ đang là lúc ban ngày, quân Ân đang
để tai mắt khắp nơi, nhất là khu vực thành Tây Giao Châu.
Thục
Ren giật mình tỉnh ngộ lấy làm hổ thẹn cho sự sai sót của mình, có lẽ vì ta quá
lo lắng nên sinh ra mù quán chăng. Chỉ cần sơ sót một việc nhỏ cũng đủ đi tiêu
10 vạn quân, liền chấp tay thi lễ nói:
Thuộc hạ quả thật hồ đồ xin Vương Tôn tha
tội.
Diệp
Lang nói:
Tướng quân không phải là người hồ đồ mà là
vì quá nóng lòng trước cảnh bao vây công phá thành của lũ giặc Ân. Tướng quân ở
lại đây chờ trời tối mới đi, để ta nghỉ cách chữa trị nọc độc Cạp Tinh cho Thái
Nga Nương Nương.
Ngọc
Thiên Hương như sực nhớ ra điều gì nói:
Tôi có thuốc chữa trị bò Cạp Tinh cắn đây.
Liền
lấy trong mình ra bình lọ nhỏ dốc ra một viên linh đơn của Vương Mẫu Nương
Nương đưa cho. Đưa viên thuốc cho Thục Ren.
Ngọc
Thiên Hương nói:
Đây là linh đơn thuốc Tiên chửa trị hóa giải
các loại độc.
Rồi
dặn đi dặn lại cách cho uống.Thục Ren mừng quá, miệng nói:
Cảm ơn tiểu thơ.
Ngọc
Hương thấy điệu bộ cung kính lễ phép của Thục Ren có pha chút ngộ nghỉnh liền
phì cười, nụ cười cô đẹp làm sao, nếu nói về vai vế, thời Ngọc Hương thuộc hàng
Quan Phủ còn Thục Ren thuộc hàng Vương Phủ. Ông mặt trời làm việc cả ngày nắng
gay nắng gắt có lẽ cũng thấm mệt, ông vội vã xuống núi ngủ một giấc ngon lành,
màn đêm bao phủ khắp non sông quê hương Tổ Quốc.
Một
bóng đen, không phải hình như là ba bóng âm thầm lặng lẽ như ba bóng ma chập
chờn ẩn hiện trong đêm tối lao nhanh về thành Tây Giang Châu. Nói về thành Tây
Giang Châu quân Ân tấn công cả ngày lẩn đêm không ngớt, hao quân tổn tướng nặng
mà vẩn chưa phá được, đang chuyển hướng tấn công khác, sự nguy hiểm từng ngày đối
với thành Tây Giang Châu. Thục Mân cùng nàng Nê Xi vợ của Thục Ren một ngày hai
đêm cứ ngồi mãi bên miệng hầm, không ăn uống chi cả những nỗi lo quá lớn đã làm
cho con người quên cả đói khát.
Nàng
Nê Xi lẩm bẩm:
Một ngày hai đêm rồi còn gì sao chưa thấy
trở lại hay là…
Nàng
không dám nghỉ nữa. Bỗng nơi miệng hầm có tiếng động hình như có người không
phải một mà tới ba. Thục Mân đứng phất dậy lùi ra xa, rút kiếm sẵn sàng tư thế
tiêu diệt địch, không phải chỉ có Thục Mân mà tất cả những ai chờ đợi ở đây đều
sẵn sàng với tư thế chiến đấu. Từ miệng hầm một người đã xuất hiện, một tiếng
ồ thiệt lớn, đó là tiếng ồ hợp âm mừng rở cảm xúc của nhiều người.
Thục
Mân, Thục Ren, Thục Cương ôm nhau bao cảm xúc khó tả. Thục Ren nói em đả hoàn
thành trở về cùng hai vị tướng hộ vệ mật thư, nhìn cặp mắt sáng quắc của hai
người mới xuất hiện, có lẽ đây là hai đại cao thủ đệ nhất võ công đương thời.
Hai
người chấp tay thi lễ nói:
Hai tôi phụng mệnh Đức Tôn Vương Tử hộ trì
mật thư và nhận thư hồi âm.
Thì
ra đây là hai vị tướng quân võ công cái thế thân cận thuộc hạ bảo vệ Đích Tôn
Vương Tử. Tức thời một cuộc họp khẩn cấp, Thục Ren liền lấy tấm da lớn chính là bức mật thơ Đức Tôn Vương gởi
cho Thục Mân và An Lạc Sơn. Thục Mân xem xong liền đưa cho An Lạc Sơn, An Lạc
Sơn thừa hành Thục Mân thảo mật thơ đáp lại. Thế là bao gánh nặng lo lắng đã
được giải tỏa, người nào người nấy tâm hồn nhẹ nhổm như bay, chỉ riêng Thục
Cương lòng buồn rười rượi.
Thục
Ren bỗng la lớn:
May tôi quên mất, có thuốc giải độc rồi, có
thuốc giải độc rồi.
Liền
lấy ra một viên linh đơn được gói kỉ, thế mà hương thơm vẫn tỏa ra ngào ngạc
làm sản khoái tâm hồn hết thảy mọi người. Thục Ren liền trao linh đơn cho Thục
Cương với phương pháp cấp cứu. Thục Cương nhận viên thuốc linh đơn, cớ ngỡ mình
nằm mơ, đờ người ra.
Đến
khi nghe mọi người la lớn:
Mau cứu người đi đứng đó làm gì.
Thục
Cương như người sực tỉnh, ba chân bốn cẳng chạy nhanh như bay tới phòng Thái
Nga. Thục Cương nhìn Thái Nga như người sắp chết đến nơi, hơi thở đứt quản chỉ còn
thoi thốp, có lẽ chỉ hơn canh giờ nữa là xong đi về bên kia thế giới.
Thục
Cương không cầm được nước mắt vạch miệng Thái Nga bỏ viên linh đơn vào, nhưng
nàng không nuốt được, Thục Cương đành dùng hơi thở nội lực của mình tống viên
linh đơn xuống bụng của nàng. Nhiệm mầu thay, thuốc vừa xuống bụng tức thời sắc
mặt Thái Nga hồng hào trở lại, ít phút sau mở mắt ra ngồi dậy như người mạnh,
chẳng thấy đau ốm hay trúng độc chi cả, chứng kiến cảnh thần kỳ có một không
hai như vậy mọi người nghỉ: Thuốc Tiên chỉ có thuốc Tiên mới thần kỳ huyền diệu
như vậy.
Thái
Nga thử vươn vai thấy thần lực tăng lên gấp ba gấp bốn lần, mừng quá nhớ lại
trong lúc mê mang có vị Tiên Cô đến dạy bảo khi nào thấy thần lực tăng lên gấp
ba gấp bốn thời sử dụng thanh kiếm mà đã trao cho cô năm xưa, cô chạy bay ra
ngoài lấy thanh kiếm nhỏ quăng lên không niệm chú, tức thời từ thanh kiếm nhỏ
tỏa ra một đạo hào quang chóa mắt, nàng liền chỉ tay xuống tản đá lớn như con
voi, tức thời nghe một tiếng sét nổ làm đinh tai nhứt óc mọi người, tản đá voi
đã bị chém đứt ra làm nhiều khúc, ai nhìn thấy cũng đều khiếp vía khiếp hồn
kinh hãi.
Thái
Nga thâu bảo bối lại oai phong như thần vệ nữ lại trẻ đẹp hơn xưa sáu bảy tuổi.
Ai cũng trằm trồ khen ngợi:
Đúng là thuốc Tiên.
Thái
Nga chạy tới Thục Cương hỏi:
Còn viên nào nữa không?
Thục
Cương ngớ người nhìn Thục Ren. Thục Ren cũng ngớ người.
Nàng
Nê Xi chạy tới nắm tay chồng hỏi:
Còn không?
Thục
Ren nói:
Làm gì có, chỉ một viên thôi.
Nàng
Ne Xi nói:
Sao không xin thêm một viên nữa.
Bỗng
mọi người cười vang:
Đã là thuốc Tiên làm gì có nhiều mà xin.
**************
PHẦN 22
Nói
về Triệu Tử Quân công phá thành hai ngày hai đêm hao binh tổn thương không có
kết quả, liền nghỉ ra phương kế khác.
Triệu
Tử Quân nói với các tướng lỉnh rằng:
Quân Văn Lang đả khiếp sợ quân Ân chúng ta
có lẽ chúng cố thủ thành chờ quân tiếp viện đến cứu, có lẽ chỉ chờ chết mà thôi
quân Ân ta tấn công đều khắp tự mình chống trả không xong có đâu tiếp ứng chổ
khác. Cũng như thành Tây Giang Châu, tự cứu mình còn chưa xong chỉ lo cố thủ
chờ chết còn đâu cứu viện chổ khác. Nói thời ta nói thế, nhưng nghỉ cảnh đêm
dài lắm mộng, thượng sách chủ động chớp lấy mọi thời cơ bao giờ cũng hay hơn là
bị động, chúng ta chiếm thành Tây Giang Châu trước khi địch cứu viện tới.
Liền
viết một mật thơ giao cho con là Triệu Tử Chân cấp tốc đến doanh trại Thống
Soái và phó Thống Soái. Ngạc Sùng Cảnh, Ngạc Sùng Văn thỉnh thị ý kiến tấn công
ý kiến tấn công chiếm lấy thành Tây Giang Châu. Cách sông Âu năm dặm về hướng
Bắc thuộc địa phận huyện Hưng Tây, tổng tư lịnh giặc Ân hạ trại đóng đô ở đây
với trên dưới 50 vạn quân, chia làm ba mũi chủ lực, mỗi mũi trên 12 vạn quân
tấn công vào chỗ yếu huyệt trọng yếu của Bắc Tây Bắc Văn Lang. Hầu chia cắt đứt
các Châu, Bộ, Quận, Huyện không cho liên kết với nhau, phong tỏa các trục lộ
giao thông trọng yếu, nhất là những vùng có kinh tế lương thực dồi dào, chiếm
lỉnh mọi ưu thế, quân sự, chính trị, kinh tế, giao thông nắm bắt mọi thời cơ
làm chủ động trong mọi tình huống biến động xảy ra.
Ngạc
Sùng Cảnh, Ngọc Sùng Văn luôn luôn cho đội quân thám báo, theo dõi nắm bắt tình
hình thông tin chiến sự kịp thời, tính toán điều hành chiến trận. Được biết
quân ta liên tục thắng trận ép quân Văn Lang vào thế cố thủ, thành Tây Giang
Châu vô cùng kiên cố, khó phá nỗi theo kiểu cách bình thường mà phá theo kiểu
cách hiện đại hơn, hỏa pháo đánh trước, chủ lực quân binh theo sau. Có một
điều quân Ân chưa được rõ là quân Văn Lang cố thủ trong thành là bao nhiêu chưa
được rõ, sao mà cố thủ vững chắc như thế.
Ngạc
Sùng Cảnh, Ngạc Sùng Văn bằng nghỉ ra một cách phá thành có hiệu quả, thời
cũng vừa đúng lúc Triệu Tử Chân đem thơ đến thỉnh trị kế sách công phá thành.
Tây Giang Châu là một trong những thành trọng yếu Tây Bắc Văn Lang, bằng mọi
giá giặc phải chiếm cho bằng được thời các châu kia sẽ bị phong tỏa cô lập như
Cương Châu, Di Châu, Hung Châu, Ngung Châu vì thế bằng mọi giá giặc quyết chiếm
cho được thành Tây Giang Châu này.
Kế
sách 1: Công phá thành được mô phỏng như sau: Lập lên nhiều đòn bẩy chịu lực
trụ lực, liên hoàng trụ lực, treo nhiều cây gỗ lớn dài nối tiếp làm dùi ví cửa
thành là mặt trống còn dùi trống là cây gỗ lớn dài đã được treo liên hoàng trụ
lực. Dùng sức hàng 100 người sức ngựa kéo lùi gỗ lớn ra rồi dộng vào, với kế
phá cổng thành này vô cùng hiệu quả, dù cho cổng thành kiên cố đến đâu cũng bị
phá vỡ.
Kế
sách 2: Là tạo ra nhiều hàng loạt cái cung cái ná khổng lồ, nhờ sức bật của
nhiều thanh tre liên hoàng hợp lại ở gọng má gọng cung trụ lực dưới đất, bắn
chất đốt, bắn những chum dầu lên thành, dầu được chế xuất từ các chất dầu có
trong động thực vật, dưới nước trên khô, cộng với các chất dầu lấy từ củ, quả,
thảo mộc, hổn hộp các chất lên men động thực vật, tạo ra các chất khí có nồng
độ bộc phát cao bốc lửa cháy lớn như vi sinh cháy, như phân dơi và còn vô số
các chất cháy khác nữa. Mượn lực của chiếc ná, chiếc cung khổng lồ bắn chất đốt
như củi rác, bắn các chum dầu lên thành rồi rớt xuống thấm vào nhau, hàng loạt
tên lửa bắn lên thành gây bốc cháy tạo ra một trận hỏa công thiêu đốt quân Văn
Lang, kế đến mới dùng thang dây hàng loạt bắt lên thành xông lên tiêu diệt
địch, với lối tấn công này quân Văn Lang cũng khó mà chống đở nỗi.
Triệu
Tử Chân nhận công lệnh cấp tốc trở về doanh trại giao mật thơ cho cha. Triệu Tử
Quân xem xong liền theo kế sách trong công văn mà thi hành.
Nói
về anh em Ngạc Sùng Cảnh, Ngạc Sùng Văn đã nghỉ ra kế sách công phá thành cho
là có hiệu quả nhất từ trước đến nay, liền đốc thúc quân chuẩn bị đầy đủ vật
liệu càng nhanh càng tốt. Người trực tiếp chỉ huy thôn tính thành Tây Giang
Châu không ai khác chính là Ngạc Sùng Văn.
Ngạc
Sùng Văn nói với Ngạc Sùng Cảnh:
Có thá gì cái thành cỏn con ấy.
Ngạc
Sùng Cảnh nói:
Phía trước còn nhiều khó khăn, để bảo tồn
lực lượng chúng ta phải thật linh hoạt khôn khéo hơn, muốn thành công lớn không
cho phép chúng ta tính sai một nước cờ nào.
Ngạc
Sùng Văn nói:
Anh hảy yên tâm.
Có
lẽ Ngạc Sùng Văn cũng nóng lòng chiếm thành Tây Giang Châu làm căn cứ quân sự,
chưa đầy bảy ngày sau đã vội vả điểm 2 vạn quân tức tốc lên đường vận chuyển
phương tiện, dụng cụ để công phá thành.
Nói
về Đức Tôn Vương Tử Diệp Lang với tư chất thông minh xuất chúng, hiểu địch,
hiểu ta, nghiền ngẩm kế sách trong mật thơ của Tây Thục Vương cọng với thám báo
mật báo cập nhật hàng giờ, nơi chiến trận của giặc của ta, dự đoán đi trước một
nước cờ, bất ngờ cho giặc. Cũng vừa lúc hai người phái đi bảo vệ mật thư đã về,
báo cáo lại tình hình ở bên đó với cơ trí nhạy bén hơn người, Diệp Lang liền đi
đến một quyết định mau lẹ táo bạo đầy bất ngờ đối với lũ giặc Ân.
Diệp
Lang triệu tập cuộc họp khẩn cấp tuyên bố:
Giờ quyết tử đã đến, chúng ta hãy chuẩn bị
tinh thần cao độ khôn khéo anh dũng tiến lên tiêu diệt lũ ngoại xâm.
Diệp
Lang liền ra lệnh:
Mường Thái nghe lịnh. Có thuộc hạ, tướng quân
điểm 2 vạn quân tới đoạn sông Mạc Sầu kết hợp với quân Tây Thụ, Tướng Lô Gô tại
thung lũng Lau Sậy Hổ Mang phục kích khéo léo, chờ quân Ân vận chuyển hàng
nghìn hàng vạn thùng dầu qua đây, khỏi khúc sông Mạc Sầu đi vào thung lũng Lau
Sậy thời tấn công tiêu diệt chúng, cho người bắn pháo hiệu lên không ra hiệu là
quân ta đã xáp chiến.
Diệp
Lang nói nhỏ dặn thêm gì đó, chỉ nghe Mường Thái nói xin tuân lệnh.
Đinh Hoàng nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng
quân cùng Nê Diêng tướng quân điểm 2 vạn quân, mỗi tướng 1 vạn quân từ hướng Đông
bọc lên đánh lên doanh trại của giặc, khi nhìn thấy trên thành Tây Giang bắn
pháo lệnh đỏ. Tuân lệnh.
Tùng Quang nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng
quân cùng Khơ Nia tướng quân điểm 2 vạn quân mỗi người 1 vạn, từ hướng Tây bọc
đánh xuống doanh trại của giặc khi nhìn thấy bên trong thành Tây Giang bắn pháo
lệnh đỏ. Tuân lệnh.
Hoàng Độ nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân
cùng Hoàng Cao mỗi người chỉ huy 1 đội kỵ binh thiết giáp, mỗi đội 200 kỵ binh
chủ lực xáp chiến với đội quân thiết giáp chủ lực của giặc. Tuân lệnh.
Còn ta cùng 3 cha con Trung Đại Nhân thống
lảnh 4 vạn quân tấn công vào chánh diện doanh trại của giặc.
Được
phân công nhiệm vụ 3 cha con Trung Đại Nhân vô cùng phấn khởi, mỗi người mỗi
vạn quân xung trận tiêu diệt kẻ thù. Ba cha con Trung Đại Nhân nghỉ: Trong đại
họa không chết, thời thường hay gặp đại phúc còn gì sung sướng hơn là kề vai
sát cánh chiến đấu quân thù với Đích Tôn Vương Tử, là vị Quốc Vương tương lai,
Hùng Quốc Vương đời thứ 4 chúa tể của nước Văn Lang. Nhất là Ngọc Thiên Hương
nàng sung sướng vô cùng.
Nói
về Ngạc Sùng Văn phó thống soái của giặc Ân với 2 vạn quân, hàng nghìn xe nặng
nề chậm chạp, nhắm hướng Tây Giang Châu xuất phát, càng lúc càng đi sâu vào
lảnh địa Văn Lang, dọc theo khúc sông Mạc Sầu, chạm chân lên thung lũng Lau Sậy
và cứ thế mỗi lúc tiến sâu thêm, gần hết khu thung lũng Lau Sậy đầy con rắn độc
vừa đụng khu rừng mây, khúc giữa khúc đuôi con rắn độc đều nằm gọn trong thung
lũng Lau Sậy rừng Hổ Mang. Bổng có một tiếng động, rồi im bặt, đoàn xe vẩn cót
két cọt kẹt nặng nề lăn bánh. Tiếng động lần hai lại xuất hiện, không phải
tiếng động thường mà là tiếng động của pháo lệnh tấn công:
Thế
là:
Mỗi hòn sỏi đá mỗi gốc cây
Đều có quân Nam ẩn núp đầy
Có lẽ căm thù quân xâm lược
Oán thù lên tới vạn tần mây
Truyền thống anh linh thời dựng nước
Rền vang kim cổ rạng Đông Tây
Giặc Ân một lũ ngông cuồng quá
Lau Sậy vùi chôn xác giặc đầy.
Ngạc
Sùng Văn nghe thấy tiếng động lạ ở rừng Lau Sậy đã sinh nghi, có cảm giác như
có quân binh mai phục, nhưng nghỉ lại quân ta đã đi qua khu thung lũng này rồi
lên tới 12 vạn quân cũng không phát hiện được gì, hơn nữa quân ta tiến sâu vào
đất Văn Lang cả trăm dặm, nơi đây đang thuộc quyền kiểm soát của quân ta nên
không chú ý tới tiếng động lạ ấy nữa mà chỉ chăm chú vận chuyển hàng hóa phương
tiện công phá thành đến nơi đến chốn mà thôi.
Tiếng
động thứ hai xuất hiện hàng loạt pháo lệnh tử chiến đã nỗi lên, quân Ân kinh
hoàng ngơ ngác. Mưa tên, bão giáo xé gió vang động cả một vùng lao tới xơi đẹp
lũ giặc Ân, tiếng ngựa hí, tiếng hò reo tử chiến cọng thêm gươm đao giáo mác
chạm nhau đinh tai nhức óc, quân Ân bất ngờ bị động trúng tên, trúng lao, trúng
đao, trúng kiếm chết la chết liệt. Quân Văn Lang phục kích đông như kiến lại
nắm phần chủ động chiếm mọi ưu thế quân Ân không thể nào chống trả nỗi trước sự
bao vây lớp lớp.
Hai
vị tướng bảo vệ Ngạc Sùng Văn nói:
Phó thống soái hãy chạy mau.
Tức
thời ngựa đạp lên quân mở đường cho Ngạc Sùng Văn chạy thoát, vòng vây cánh Tây
Bắc liền phá vỡ quân Ân ào ào chạy thục mạng. Vừa thoát khỏi vòng vây hơn 2
dặm, quay đầu nhìn lại, có lẽ 10 vạn quân phá vòng vây đã chụm hết bảy, chỉ còn
lại 3 nghìn. Hai vị tướng quân giặc Ân ngăn cản không cho quân Văn Lang đuổi
theo, đã ngã gục tại sa trường.
Ngạc
Sùng Văn không còn nghỉ ngợi gì thêm nữa giục ngựa phi như bay, nhắm hướng Tây
Bắc chạy thục mạng. Cho đến khi không còn nghe tiếng reo hò của quân Nam nữa,
thời mới hay mình đã lạc vào nơi hiểm địa của dãy núi Hùng Phong Sơn, liền kinh
hãi chỉ một con đường độc đạo duy nhất, hai bên là vách núi cao sừng sững vắng
vẽ im liềm mới an tâm phần nào liền xuống ngựa ngồi nghỉ lấy lại sức lực.
Không
bao lâu thời 3 nghìn quân sống sót cũng đã theo tới, Ngạc Sùng Văn bây giờ mới
tỉnh hồn trở lại than vắng thở dài:
Trời hại ta rồi. Trời hại ta rồi, ta sẽ ăn
nói làm sao đây.
Càng
nghỉ càng buồn không tả. Nhìn cảnh binh lính tơi bời xơ xác, kẻ nằm dưới đất,
người dựa gốc cây, vũ khí rời thân, mặt mày hốc hác. Thầm nghĩ: nếu gặp phải
đàn bà phái yếu cũng không đủ sức để chống trả, huống chi gặp quân mai phục ở
đây thời kể như là hết đời.
**************
HẾT QUYỂN 1.
COMMENTS