QUỐC BẢO CHÂN KINH LONG HOA MẬT TẠNG KINH THIÊN ẤN - THIÊN BÚT GÒ HỘI ĐỨC PHỔ - QUẢNG NGÃI 2000 Cao...
QUỐC BẢO CHÂN KINH
LONG
HOA
MẬT TẠNG
KINH
THIÊN ẤN - THIÊN BÚT
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ - QUẢNG NGÃI
2000
Cao Đức Thắng
QUYỂN 1
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1
Tôi
là người Việt nên rất yêu mến Cội Nguồn người Việt.
Tôi
thường nghe thầy tôi là Đức Hư Không Tạng Diệu Không kể lại rất nhiều lịch sử,
nhưng đáng chú ý nhất đó là lịch sử Tiên Rồng.
Thầy
tôi kể, lịch sử Tiên Rồng là một lịch sử có thật, lịch sử tốt đẹp nhất của dân
tộc Việt Nam. Đã trải qua nghìn năm Văn Hiến do các Vua Hùng tôn thờ truyền
lại. Thầy tôi nói, Quốc Tổ Hùng Vương là Đấng Chí Tôn Thiên Đế lâm phàm, đã để
lại cho con cháu Việt Nam. Hai di sản
quí hiếm.
1: Là di sản Non Sông Tổ Quốc.
2: Là di sản Văn Hóa Cội Nguồn.
Nền
Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc. Nền Quốc Đạo Tiên Rồng là Tinh Hoa vũ trụ, là tiền
đồ ung đúc bao thế hệ tinh thần Dân Tộc, trở thành Dân Tộc Thần Thánh. Rừng
vàng biển bạc Non Sông đất nước là tiền đồ ung đúc lên sự giàu sang ấm no hạnh
phúc.
Tôi
lại hỏi. Thưa thầy: Nền Quốc Đạo Tiên Rồng tốt đẹp như vậy, sao không phát
triển truyền bá rộng rải cho thế hệ con cháu gìn giữ?
Thầy
nói. Nền Quốc Đạo Tiên Rồng là Nền Thiên Luật vũ trụ, Hiến Pháp Đại Đồng Tạo
Hóa, Đạo Trời, Thiên Đạo. Chỉ dành riêng cho Vua thờ, không phải Đạo của dân
thờ. Hơn nữa trình độ dân trí thời ấy quá lạc hậu, tập tục mê tín dị đoan quá
lớn. Hơn nữa Nền Quốc Đạo Tiên Rồng lời lẻ thâm sâu khó hiểu nên không thể
truyền rộng rãi xuống dân được. Chỉ vào ngày hội lớn mới được nghe. Nhưng đó
chỉ là lời truyền dạy khuyến thiện mà thôi, còn Tinh Hoa của Nền Quốc Đạo thời
dân khó mà được nghe.
Nền
Quốc Đạo Dân Tộc là Nền Hiến Pháp, Luật Pháp trị Quốc an dân, Nền Quốc Học Văn
Minh thời đại. Nhất là lọt vào Tà Ma Ngoại Đạo thời nguy hiểm cho đất nước, họ
lợi dụng chánh giáo mê hoặc dân chúng, y giáo một đường giảng một nẻo. Bốp méo Luật
Thiên chuyện không nói có chuyện có nói không. Nhất là kẻ thù có dã tâm xâm
lược. Thời tai họa không biết đâu mà lường.
Thầy
nói. Giữ Tổ Quốc Non Sông đã khó. Giữ gìn Nền Quốc Đạo lại càn khó hơn, vì thế
Văn Hóa Cội Nguồn được coi như là báu vật vô giá, được giữ gìn nghiêm ngặt. Hơn
nữa Thiên Cơ chưa đến thời cơ chưa phù họp. Thời xa xưa ấy Dân Tộc Văn Lang nói
riêng, nhân loại thế giới nói chung. Khoa học thế giới vật chất trên đà đang
hình thành tượng búp, chưa thành búp nói gì đến nở hoa khoa học Văn Minh vật
chất. Nên chưa chế tạo ra giấy bút tinh vi. Chỉ dùng da Thú thay cho giấy. Còn
dùng thanh tre thay cho giấy là sau này mới có. Không những nền Văn Minh vật
chất chưa thành búp mà ngay cả chữ viết cũng còn thô sơ lạc hậu không kém. Khó
mà diễn tả ý của Văn Kinh. Lấy việc khắc tượng, vẽ hình họa cảnh lên đất, lên
đá, lên cây để truyền dạy cho thế hệ sau. Sự truyền dạy ấy không mấy đem lại
kết quả. Quốc Tổ Vua Hùng cũng thấy rõ được điều này.
Nên
nói rằng ta sẽ trở lại trần gian ở kỳ 3. Là thời kỳ trình độ dân trí lên cao.
Khoa học vật chất đã nở hoa rực rỡ. Văn Hóa Cội Nguồn ra đời không có điều kiện
để lại Kinh Luân. Mọi chuyện truyền giáo chỉ truyền khẩu cho nhau, thông qua
khẩu tự ngôn từ Từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cứ thế kéo dài mấy nghìn năm
thời chuyện gì xảy ra. Đó là tam sao thất bổn. Làm sai lệch chính văn là đều
không tránh khỏi vì thế Nền Tinh Hoa Quốc Đạo cũng dần dần biến mất, thay vào
đó là những chuyện sai lệch.
Có
thể nói buổi ban đầu truyền giáo, Quốc Tổ Vua Hùng thuyết kể về Con Rồng Cháu
Tiên thật. Về sau qua nhiều thế hệ truyền giáo thuyết kể Con Rồng Cháu Tiên,
qua những lý luận mơ hồ, kể lần ra loài Rắn nước không còn chút uy lực nào cả.
Rồi bị ngoại xâm biến thành con giun dưới chân của chúng, Dân Tộc Tiên Rồng trở
thành dân tộc nô lệ. Thế hệ con cháu Vua Hùng càng về sau càng đánh mất Tinh
Hoa Văn Hóa Cội Nguồn. Từ một lịch sử anh linh cao đẹp, rồi trở thành một tập
quán truyền thuyết chân lý mơ hồ. Từ đây con cháu Tiên Rồng sa vào cảnh tối
tăm. Nô lệ ngoại bang, nô lệ Thần Quyền, nô lệ Kiến Thức. Nhất là những thức vô
cùng độc hại dẩn đến cảnh nồi da nấu thịt, anh em tàn sát lẩn nhau. Đạo Đức xã
hội xuống cấp trầm trọng, dẩn đến chiến tranh truyền miên khó mà kết thúc. Đói
nghèo lạc hậu đeo bám cuộc đời. Thương thay. Thương thay.
*********
Hết
phần mở đầu Long Hoa Mật Tạng, mời khắp tần lớp xã hội con cháu Việt Nam, xem
tiếp phần 1 chương 2 Long Hoa Mật Tạng Bộ Kinh tối cao, có một không hai trên
toàn nhân loại. Chỉ cần đọc qua một lần, thời nhất định siêu sanh lên các tần
trời, cõi trời hoặc trở thành những nhà lảnh tụ thiên tài. Lưu danh mãi nơi hậu
thế. Nếu như đọc tụng ấn in, hoặc giảng giải cho người khác nghe, thời công đức
phải nói là vô cùng vô tận. Phải nói là cầu đâu linh đó, cầu chi đặng nấy. Bằng
có lời chi xúc phạm thời đại họa giáng xống không biết đâu mà lường.
Chỉ cần khen ngợi một câu
Muôn đời vạn kiếp siêu sanh cõi trời
Chỉ cần xúc phạm một lời
Họa tai giáng xuống đứng ngồi không yên
Linh thiên linh ứng vô biên
Chỉ cần thành kính cũng nên sang giàu.
CHƯƠNG 2
PHẦN 1
MẶT TRỜI CHÂN LÝ LẶNG BÓNG ĐÊM TRÙM
XUỐNG NHÂN GIAN
Vào
năm 110 trước công nguyên lúc đó giấy bút thô sơ mới được ra đời. Cho đến 542
sau công nguyên mới có diệp hưng thịnh nhưng chưa tinh vi mấy. Cũng từ đây các
học giã Việt Nam. Hồi tưởng về Cội Nguồn. Tìm toài qua sự thờ cúng, Thơ ca, Hò
vè, Truyện kể, Khắp mọi miền đất nước. Rồi đúc kết lại viết lên lịch sử Tiên
Rồng, làm mối ghiền. Bản sắc đoàn kết dân tộc, bảo vệ giữ gìn quê cha Đất Tổ.
Đánh đuổi ngoại xâm.
Nhưng
tiếc thay các Ngài chỉ là người thường tục. Chưa tu luyện Đắc Đạo nên không có
Huệ Nhãn, Pháp Nhãn. Khó mà thấy rõ quá khứ vị lai, phân biệt được sai lệch giả
chân đúng sai. Trong sự thờ cúng, truyện kể, thơ ca hò vè. Ở quá khứ và hiện
tại sai lệch ở điểm nào, ghi đại những thu thập không hiểu là đúng sai cứ kết
thành sử liệu, để lại cho đời sau.
Sự
truyền khẩu kéo dài, lại thêm sự thêm bớt khi truyền khẩu. Có nhiều điểm vô lý
thiếu khoa học. Nào có phải là tinh hoa Văn Hóa Cội Nguồn. Cái sai dây chuyền.
Dựa vào đó mà kết thành sử liệu. Khác nào đưa cái sai đến chỗ sai thêm.
Ở
đây chúng tôi nêu lên vài điều vô lý. Đối chiếu giữa mình và Trung Quốc ở sát
bên nhau. Không những liên quan về Họ Tộc mà còn liên quan nhiều điểm khác nữa.
Nếu nói Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ cách đây hơn 4 nghìn năm. Sinh ra một cái
bọc đẻ ra trăm trứng nở ra trăm con.
Nếu
nói trăm trứng nở ra trăm con, 50 Nam, 50 Nữ, Gái theo Mẹ lên núi, Trai theo
Cha xuống biển. Lớn lên gặp lại lấy nhau. Thành Tổ Tiên của người Bách Việt là
không có cơ sở khoa học. Vì sao?
Vì
vào thời kỳ ấy, cách đây hơn bốn nghìn năm. Thời chỉ trước thời nhà Hạ, trước
thời Nghiêu, Thuấn mà thôi. Không những không đúng sự thật mà còn có hại nữa là
khác.
Nếu
nói Âu Cơ sinh ra 50 Nam, 50 Nữ, Gái theo Mẹ lên núi, Trai theo Cha xuống biển,
lớn lên gặp lại lấy nhau trở thành Tổ Tiên của người Bách Việt.
Chỉ
ở thời điểm này thời chúng ta đã thấy bất ổn. Họ sẽ cho chúng ta có nguồn gốc
loạn luân. Trong khi nước bạn Trung Quốc ở sát bên ta. Ở vào thời kỳ này nền
Văn Minh Thần Giáo đang trên đà Văn Minh cực thịnh. Nhơn Luân cũng đã khá rõ
ràng, anh em ruột không lấy lộn nhau. Nếu có lấy cũng chỉ là con nhà Cô Cậu, Dì
Dượng mà thôi, còn trong họ tộc ít lắm cũng phải qua ba đời. Huống chi Nền Văn
Minh Quốc Đạo Tiên Rồng, Văn Hóa Cội Nguồn, Hiến Pháp Văn Lang cấm hẳn anh em
ruột thịt lấy lộn nhau.
Nếu
còn nói Âu Cơ chỉ sanh một trăm con Trai, tránh đi sự loạn luân, thời nguồn gốc
của người Bách Việt lại càng thêm bất ổn. 100 người con trai Âu Cơ lớn lên lấy
vợ ở đâu? Và những người vợ ấy là dân tộc nào? Không ai giải thích nổi, đó là
nói đến phàm trí. Còn bật Đại Thánh trí thời thấy quá rõ ràng. Có thể nói tốm
tắc câu chuyện, Lạc Long Quân và Âu Cơ sanh ra bọc trứng. Từ bọc trứng nở ra
trăm con sau đây.
(Xem Kinh Long Hoa Thiên Tạng sẽ nói rỏ
hơn).
QUỐC TỔ VUA HÙNG KỂ RẰNG:
Cách
đây 3 trăm 27 triệu 600 nghìn năm. Ở vào thời kỳ ấy. Cuối kiếp tăng, đầu kiếp
giảm. Thời kỳ ấy là thời kỳ chánh khí. Khí Tiên Thiên dày đặc. Côn trùng thảo
mộc, sinh linh vạn vật, muôn loài Cầm Thú tiến hóa rất nhanh. Lại thêm tuổi thọ
sống lâu vô kể nên sự sanh sôi nẫy nở lan rộng rất nhanh. Cùng khắp mặt Địa Cầu
ở khắp năm châu bốn bể. Và cái ác, cái thiện sơ khai cũng từ từ ló dạng ra đời.
Loài
Rồng và loài Quỷ thường đánh nhau, sự bất phân thắng bại ấy kéo dài tới hàng
triệu triệu năm. Hết tiểu kiếp này sang tiểu kiếp khác.
Cho
đến một hôm, Trái Đất xảy xa chuyện lạ. Đó là con người xuất hiện sanh con đẻ
cháu, lưu truyền cho đến ngày nay. Cách đây 75 triệu 600 nghìn năm. Giữa tiểu
kiếp thứ 5 của kiếp trụ. Tức là ở đỉnh kiếp tăng đầu kiếp giảm.
Thời
kỳ ấy ở phương Đông có một dãy núi cao, to, rộng lớn vô cùng. Quanh năm tuyết
phủ che lấp hết thảy ngọn núi, khí lạnh bao trùm. Chim muôn vạn thú ở dãy núi
này đông vô số nhiều vô biên, không thể tính đếm hay luận bàn cho hết được.
Phần nhiều muôn loài Cầm Thú đều có pháp thuật thần thông. Sự đi đi lại lại của
các loài Cầm Thú thường gây lên những cơn gió lốc. Cây cối ngã đổ ầm ầm. Lại
thêm loài Rồng đánh nhau với các loài Quỷ dữ dội. Nhất là đánh nhau với Mộc
Tinh, Hồ Tinh và Ngư Tinh tạo ra cảnh mù trời mịt đất. Chết chóc ghê hồn.
Ngọn
núi cao chót vót khoảng độ 10 nghìn mét, dài, to, rộng ấy, bao hàm rộng lớn gồm
3 nước. Lào, Campuchia và Việt Nam, hình thể như một con Rồng vương mình bay về
vũ trụ.
Chân
núi ở phía Đông rộng xa kéo dài thăm thẳm, giáp liền tới các Đảo. Ngày nay gọi
là Đảo Hải Nam, Trường Sa, Hoàng Sa.
Chân
núi ở phía Nam kéo dài rộng xa thăm thẳm. Giáp liền tới các Đảo Na Tu Na,
MALAIXIA.
Chân
núi ở phía Tây kéo dài rộng xa thăm thẳm. Giáp liền Mê gui, Ta voi, Nam tu, Mit
ti na, MI AN MA.
Chân
núi ở phía Bắc bao trùm cả Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu. Nói chung
bao trùm hầu hết giang Nam lỉnh Nam Trung Quốc.
Một
dãy núi cao to đã kinh khiếp. Cọng thêm chân núi bốn phía xung quanh bao trùm
rộng lớn như đã kể trên. Chưa hết, còn có 7 dãy núi khác nữa, bao bọc xa gần.
Nói chung là 7 nước xa gần là 7 nước Đông Nam Á hiện nay.
Một
dãy núi cao dài rộng lớn kinh khiếp ấy. Hình thể như một con Rồng vươn mình bay
lên hư không vũ trụ. Nên gọi dãy núi đó là dãy núi Long Hoa. Long Hình Địa Cốt.
Địa Long của quả Địa Cầu.
Ở
dưới dãy lòng núi, nằm sâu dưới đất. Có một khoảng trống chạy dài theo dãy núi.
Linh Địa đều tập trung nơi đây. Trải qua hàng triệu triệu năm. Linh tuyền linh.
Cốt của Địa Long hết sức quí hiếm. Trên đỉnh núi tuyết phủ quanh năm, khí hậu
lạnh lẽo.
Lưng
chừng núi rãi rác có hàng trăm hàng nghìn cái động lớn. Hàng vạn cái động nhỏ.
Phần do tự nhiên. Phần do Thú Cầm có pháp thuật thần thông tạo ra. Quang cảnh
nhộn nhịp bởi quá đông chim muôn vạn thú. Cây cao bóng cả tàn tán Sum Suê. Xanh
um bạc ngàn lớp áo bọc ngoài dãy núi. Hoa văn sặc sở chen nhau đua sắc đua
hương của nhiều loại hoa. Thêm vào đó là những quả chín đỏ chín vàng. Lúc nào
cũng mỉm cười với những cụm đá chồng ngộ nghĩnh. Cành lá rung rinh theo chiều
gió, suốt ngày suốt đêm làm bạn hàng nghìn hàng trăm đám mây ngũ sắc la đà bay
lượng xung quanh dãy núi. Làm cho quang cảnh xung quanh của núi có muôn vạn đèo
mây.
Dãy
núi Long Hoa đẹp như Thiên Sơn Tiên Cảnh. Còn bốn bên chân núi thời rừng xanh
thăm thẳm, trải dài vô tận. Suối, sông, ao, hồ tuông chảy ngày đêm không ngớt.
Thời tiết ở bốn phía chân núi chuyển vận theo bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Khi
Chân Núi phía Bắc khí hậu lạnh, mưa to, gió lớn. Thời chân núi ở phía Nam lại
là mùa nắng ấm. Chân núi ở phía Tây lạnh lẽo, mưa gió lụt lội. Thời ngược lại
chân núi ở phía Đông lại là mùa khô ráo hạn hán. Cứ thế ở bốn phía chân núi
thời tiết luân phiên trái ngược nhau.
Có
thể nói dãy núi Long Hoa. Long Hình Địa Cốt. Là dãy núi thể hiện đầy đủ huyền
Thiên Tạo Hóa. Vô Cực, Thái Cực, ÂM DƯƠNG, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Ngũ Hành, Bát
Quái, Thiên Can, Địa Chi, Hào Quẻ, biến hóa ảo diệu vô cùng. Phải nói là dãy
núi linh thiên nhất của Trái Đất. Trung tâm khí Thiên sông núi linh ứng của Quả
Địa Cầu. Là một Thánh Địa để cho con người ra đời và thật vậy.
*********
Hết
phần 1 chương 2 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 2 chương 2. Long Hoa Mật
Tạng kinh là bộ kinh quý hiếm không thể nghĩ bàn, những người hữu duyên chỉ cần
đọc qua một phần kinh thời coi như tội lỗi tiêu tan muôn vạn ức kiếp, rốt sau
đều thành Phật Tổ, Thánh Tổ, Chúa tổ, giáo hóa vô lượng cõi nước trời. Nếu đem
in ấn, biên chép truyền bá cho đời, thời phước đức không kể sao cho hết. Không
những Ông Bà Cha Mẹ siêu thăng về thượng giới. Mà con cái cháu chắt hiễn vinh
đời đời giàu sang bậc nhất.
Long Hoa Mật Tạng quí biết bao
Muôn nghìn ức kiếp khó tìm cầu
Chỉ cần đọc tụng truyền bá khắp
Vua Trời mãi mãi đấng tối cao.
CHƯƠNG 2
PHẦN 2
CHA TRỜI - ĐỊA MẪU
XUẤT HIỆN
LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ
Lúc
bấy giờ nơi cõi Hư Không trung tâm vũ trụ, Đức Khai Hóa Tối Thượng Tổ Tiên,
thấy muôn loài Cầm Thú sát phạt lẩn nhau, không còn tiến hóa được nữa với cái
tánh ngu si mê muội ác độc, ngự trị mãi linh Hồn của chúng, đầu thai lẩn quẩn
lộn qua lộn lại ở loài Cầm Thú mà thôi.
Tổ
Tiên Khai Hóa nhìn vũ trụ nghỉ, giang sang ta rộng lớn thế này, không người cai
quảng với tính chất ngu si của loài Cầm Thú thời khó mong làm chủ được vũ trụ,
chớ đừng nói đến linh Hồn của chúng giác ngộ trở về Cội Nguồn, chúng mãi mãi ở
lớp Thú Cầm, rồi đọa lạc sang Côn, Trùng, Thảo, Mộc.
Linh
Hồn 8 muôn 4 nghìn loài sống trong vũ trụ nói chung, bốn quả Địa Cầu nói riêng
linh Hồn của chúng cũng chính là linh Hồn của ta, ở hai dạng khác nhau. Ta nước, chúng là bọt nước. Linh Hồn của ta
Đại Linh Hồn vũ trụ ví như nước. Còn linh Hồn 8 muôn 4 nghìn loài là tiểu linh
Hồn vũ trụ, ví như bọt nước. Tiểu Linh Hồn do Đại Linh Hồn tạo ra. Cũng như bọt
nước là do nước tạo ra. Nước chỉ là một, còn bọt nước thì nhiều vô lượng vô
biên.
Linh
Hồn của chúng không phải do trí giác ta tạo ra mà do thân giác vũ trụ ta tạo
ra. Khi trí giác vũ trụ ta ngủ sâu vào Đại Định, không còn kiểm soát thân giác
nữa Thân giác ta liền khởi ý phân biệt xâm nhập vào thế giới vật chất. Thế là
trở thành Tiểu Linh Hồn vũ trụ nhiều vô lượng vô biên không thể tính đếm, không
thể nghĩ bàn.
Linh
Hồn của chúng sanh ra khi ta còn đang ngủ. Nên Linh Hồn của chúng vì đó mà tối
mê chìm đắm mãi trong cảnh giới vô minh không bao giờ trở về Cội Nguồn được.
Cũng như bọt nước u mê, thời không bao giờ hiểu chúng từ nước sanh ra và Tiểu
Linh Hồn cũng thế. Không bao giờ hiểu mình từ Đại Linh Hồn sanh ra vì không
hiểu rõ Nguồn Cội của mình. Cứ trôi lăn mãi trong sanh tử, đầu thai qua lại ăn
nuốt lẩn nhau, Ác tánh khởi sanh như non, như núi, xung đột tàn sát khốc liệt.
Vì hiểu rõ muôn loài Cầm Thú tiến hóa đến đây thời không còn tiến hóa được nữa,
cũng như trí giác Linh Hồn của muôn loài Cầm Thú không bao giờ tìm thấy Đại
Linh Hồn vũ trụ trở về với Cội Nguồn.
Nên
Khai Hóa Tổ Tiên mới hiện thân ra con người.
(xem Kinh Long Hoa Thiên Tạng nói rõ
điều này hơn)
Lưu
truyền nòi giống con người để mà cứu chúng. Lưu truyền nòi giống con người có
nhiều mục đích:
1:
Là để cho các loài Cầm Thú, đầu thai làm người. Một thể xác cao cấp tiểu thiên
vũ trụ.
2:
Linh Hồn muôn loài Cầm Thú nhờ thể xác con người, thể xác cao cấp tiểu thiên vũ
trụ. Tiến hóa Linh Hồn nhanh chóng lên cảnh giới, Phật, Thánh, Tiên, Thần,
Chúa.
3:
Thay thế Tổ Tiên cai quản điều hành vũ trụ, lúc Tổ Tiên ngủ, cũng như lúc Tổ
Tiên thức.
4:
Điều hành nhân loại còn ở cảnh giới phàm, phàm phu theo Thiên Đạo. Hiệp theo bộ
máy huyền vi của Tạo Hóa. Hiệp theo Thiên Luật Cội Nguồn.
5:
Thay thế Tổ Tiên. Khai tạo lập lên cảnh giới Thiên Đàng Cực Lạc. Cảnh giới cao
nhất của loài người.
6:
Duy trì: Mật Tạng, Pháp Tạng, Thiên Tạng, Luật Tạng, Công Đạo Hiến Pháp vũ trụ.
7:
Đại Đồng vũ trụ, Độc Lập thống nhất bình đẳng, đem lại sự bình yên cho toàn vũ
trụ.
8:
Phát minh khoa học toàn năng toàn giác, tinh thần, vật chất. Phục cho nền Văn
Minh vũ trụ.
9:
Trở về Cội Nguồn. Ví như bọt nước tan biến trở về là nước. Tiểu Linh Hồn trở về
Đại Linh Hồn. Trở về thật tánh thật tướng của mình. Vô thỉ vô chung như như
bình đẳng.
10:
Là hiện thân toàn năng toàn giác lập ra vô lượng phương tiện. Phù hợp khả năng
ở mỗi thời kỳ, độ tận thiên hạ. Sự hiện thân của Tổ Tiên Khai Hóa, lưu truyền
nòi giống con người có 10 mục đích như thế, lợi ích như thế nhưng Tổ Tiên hiện
thân bằng cách nào. Khi Tổ Tiên bản thể vốn vô vi, muốn hiện thân thành hửu vi
phải có cơ sở khoa học của nó.
Tổ
Tiên Khai Hóa phải dùng đến ý niệm tốm thâu, giống như Lực Nam Châm hút lấy
sắc, thép, kẻm, chì. Tổ Tiên dùng ý niệm tốm thâu Tiên Thiên Tinh Hoa vũ trụ.
Hiện thân ra Đức Cha Trời, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, hào quang sáng chói. Tổ
Tiên lại tiếp tục dùng ý niệm, tốm thâu Tiên Thiên Chơn Âm, Tinh Hoa vũ trụ.
Hiện thân ra Đức Địa Mẫu đủ 32 tướng tốt, 80 mươi vẽ đẹp hào quang sáng chóa.
Sự
hiện thân của Tổ Tiến, một âm một dương, một nam một nữ. Làm cho không gian bổng
sáng rực rỡ. Như báo hiệu Đức Cha Trời Đức Địa Mẫu ra đời, chuẩn bị cho cuộc
hành trình lưu truyền nòi giống con người. Thay thế Tổ Tiên trông coi vũ trụ.
Đức Cha Trời khi có con gọi là Đức Lạc
Long Quân.
Đức Địa Mẫu khi có con gọi là Đức Âu Cơ.
Đức
Cha Trời cùng Đức Địa Mẫu, chọn lấy quả Địa Cầu Nam Thiện Bộ Châu. Quả Địa Cầu
mà chúng ta đang sanh sống, làm nơi sanh sản con người trước nhất. Từ nơi chốn
hư không trung tâm vũ trụ, Hai Đấng Tiên Rồng, Cha Trời, Địa Mẫu từ từ bay đến
Trái Đất và đáp hạ xuống đỉnh núi Long Hoa, Long Hình Địa Cốt Trái Đất. Làm cho
Trái Đất rung động. Chim muôn vạn thú kinh hoàng hoãng sợ, không biết điều gì
đã xảy ra. Mây ngũ sắc bổng nhiên xuất hiện. Dưới mặt đất muôn hoa chen nhau
đua nỡ, cây cối khô héo lâu ngày bổng đâm chồi nảy lộc xanh tươi trở lại. Sông
suối khô cạn, tự nhiên nguồn mạch sung túc rốc rách chảy tuôn thấm nhuần mặt
đất. Bầu Trời mát mẻ trong xanh, Nhật Nguyệt Tinh Tú thi nhau tỏa sáng. Dưới
đất trên cây Phụng Hoàng nhảy múa. Rồng uốn khúc ngúc ngoắt vẫy đuôi, 8 muôn 4
nghìn loài như đi vào an lạc mới.
Từ
nơi ngọn núi Long Hoa, muôn đạo hào quang tỏa lên rực rỡ, mang theo mùi hương
thơm ngát Loài Cầm Thú nào hít được thời không còn đói khát, như uống phải cam
lộ Linh Đơn, Linh Hồn phấn chấn như muốn bay bổng lên Trời. Các loài Cầm Thú có
pháp thuật thần thông, thấy ngọn núi Long Hoa, muôn Đạo hào quang tỏa lên rực
rỡ thời bốn phương tám hướng quả Địa Cầu, các loài Thần Thú Thần Cầm lũ lược
bay đến làm cho ngọn núi Long Hoa trên không dưới đất chật nghẹt. Ngày hội của
Thú Cầm.
Đây
nói về Đức Cha Trời cùng Địa Mẫu đáp xuống ngọn núi Long Hoa gây ra chấn động
Địa Cầu. Liền thâu nhỏ thân hình lại cao độ vài mươi trượng mà thôi. Đức Địa
Mẫu Âu Cơ liền gồm thâu khí ngũ Địa, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa ở bốn phương Đông, Tây,
Nam, Bắc và Thổ Khí Linh truyền sâu dưới dãy núi Long Hoa, tạo thành phôi thai
trăm trứng cùng trong một cái bọc to lớn trong bụng Mẹ Địa Mẫu Âu Cơ.
Núi
Long Hoa là dãy núi hình Rồng, thu hút Tinh Hoa của Trời Đất hàng triệu triệu
năm. Vô Cực, Lưỡng Nghi, ÂM DƯƠNG gồm đủ, tứ tượng đủ đầy, bát quái chuyển xây,
Ngũ Hành, Địa Chi không thiếu, một trăm chi khí, trấn khắp ngũ phương Đông,
Tây, Nam, Bắc, Trung Uơng Thượng, Hạ.
Đức
Địa Mẫu Âu Cơ tốm thâu Tinh Hoa, khí hóa Ngũ Địa của dãy núi chân núi Long Hoa.
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ kết tụ thành trăm trứng trong một bọc, trăm trứng vì
vậy cũng chia thành năm màu da khác nhau.
Kim
trứng da trắng. Mộc trứng da chàm. Thủy trứng da đen. Hỏa trứng da đỏ. Thổ
trứng da vàng.
Sự
hình thành phôi thai, dưỡng nuôi bào thai phải trải qua một thời gian khá lâu,
đúng chu kỳ luật tự nhiên ở đỉnh cao tuổi thọ giữa tiểu kiếp thứ 5, con người
sanh ra trung bình thọ 60 nghìn tuổi, yểu 40 nghìn tuổi, thọ 80 nghìn tuổi. Nên
Địa Mẫu Âu Cơ phải mang thai 9 năm, 9 tháng, 100 ngày thời thai nhi mới phát
triển đầy đủ, lục phủ ngũ tạng, sáu căn, chín khiếu hoàn hảo. Trở thành con
người hài nhi (xác thân tiểu thiên vũ
trụ). Tinh Cha, Huyết Mẹ, Tinh của Trời, Khí của Đất. Đức Địa Mẫu Âu Cơ đã
mang thai trăm trứng. Sắp đến ngày khai hoa nỡ nhi, nhân loại con người sẽ ra
đời, chào đời, sắp đến giờ quan trọng ấy.
Đức
Địa Mẫu Âu Cơ nói với Đức Long Hoa Cha Trời rằng:
Này ông, giờ thì đến lượt ông, ông hãy gọi
muôn loài Cầm Thú đến, để chúng đầu thai làm con người, làm con của chúng ta.
Đức
Long Hoa Cha Trời nghe Địa Mẫu Âu Cơ nói thế tức thời từ nơi cửa miệng của Đức
Long Hoa Cha Trời, trùng trùng điệp điệp lớp lớp hào quang tung tủa phóng ra,
tạo ra vô số vô biên âm thanh vi diệu, truyền xa đến tận chân trời góc bể khắp
quả Địa Cầu.
Chim
muôn vạn thú là những con chúa tể đầu đàn nghe được âm thanh ấy liền cấp tốc
lên đường đến nơi Cha Trời đang gọi. Lúc bấy giờ xa gần trên không xa gần ở
đỉnh núi Long Hoa. Lớp lớp mây ngũ sắc biến thành cây báu khổng lồ, các loài
Cầm Thú khắp mặt Địa Cầu, loài ở động ở hang, loài ở rừng ở núi, loài ở cây ở
đất, loài ở sông ở biển, loài ở tuyết ở lửa, thi nhau bay đến ngọn núi Long Hoa
rợp trời rợp đất. Nhìn các loài Cầm Thú đông vô số vô biên, không thể tính đếm
không thể nghỉ bàn, lớp ở mặt đất, lớp ở trên cây báu, lớp ở trên không, Chúa
Tể của loài bò sát, Cầm Thú đều có mặt.
Các
loài Thần Thú, Thần Cầm thấy hai Đấng Tiên Rồng, cao lớn kỳ lạ. Hào quang sáng
rỡ muôn màu muôn sắc. Xinh đẹp tôn nghiêm. Nhưng rất hiền lành, có loài bạo
dạng đến gần để nhìn cho rõ.
Địa
Mẫu Âu Cơ thấy Chúa Tể của muôn loài đến đông đủ, toàn thân của Địa Mẫu Âu Cơ,
trổi dậy vô lượng mùi hương lan tỏa khắp, muôn loài Cầm Thú, Bò Sát chỉ cần hít
vào, không những hết đói khát cả tháng mà Linh Hồn cũng sáng suốt minh mẩn lạ
thường, nhạy cảm vô biên.
Nhất
là loài Rồng, loài Phụng, loài Khổng Tước, loài Kỳ Lân, loài Voi, loài Sư Tử,
loài Ngựa, Trâu, Dê, Chó, Mèo v.v… Đức Long Hoa Cha Trời thấy chúng nó đã hít
huệ hương, trí hương, giác hương, giới hương, định hương, thiện hương, dũng
hương, tín hương, nghĩa hương, lễ hương, nhẩn hương, xả hương, nhịn hương, nhục
hương, lạc hương, thiên hương v.v.. Liền dùng trăm nghìn muôn ức hào quang phát
ra muôn vạn âm thanh vi Diệu, cùng một lúc thuyết giáo nói chuyện với muôn
nghìn chủng loại Cầm Thú, Bò Sát.
LỜI TRUYỀN DẠY CỦA ĐỨC CHA TRỜI :
Hỡi các loài Cầm Thú, các loài Bò Sát, ta
đây là Đấng Chúa vũ trụ, Đấng tạo lập lên tất cả. Nay ta gọi các ngươi đến đây
nói rõ các ngươi từ đâu có ra thời các ngươi phải hiểu để biết đường trở về, thoát
khỏi cảnh luân hồi sanh tử, thoát khỏi cảnh ngu si khốn khổ. Khi xưa ta tạo ra
Lực, Khí, Lửa, Nước, Đất, Ngũ Đại vũ trụ, thành lập Tam Thiên, Đại Thiên thế
giới, ba cõi vật chất Thiên Đàng, Trần Gian, Âm Phủ. Tạo ra Nhật, Nguyệt, Thiên
Hà Ngân Hà Tinh Tú, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ sau cùng là 4 quả Địa Cầu. Thời ta
cũng đã quá mệt nên đi vào giấc ngủ say sưa. Ta có một cái tánh đặc biệt, khi
ta thức thời pháp thân ta Quang Minh, nhưng khi ta đi vào giấc ngủ say sưa,
không kiểm soát được pháp thân của ta nữa, pháp thân ta liền trở thành vô minh,
xâm nhập vào thế giới vật chất. Khởi tưởng phân biệt bám lấy vật chất, từ bản
thể linh giác, Thấy, Nghe, Hay, Biết tự nhiên của ta, nẩy sanh khởi tưởng phân
biệt, tức thời thân ta một phần lớn bể ra từng mảnh nhỏ, nhiều vô số vô biên
không thể tính đếm, không thể nghỉ bàn như vô số vi trần cát bụi vô tận vô
biên. Những mảnh bể Linh Hồn đó đã trải qua vô lượng vô biên số kiếp, tiến hóa
ý thức, những mảnh Linh Hồn đó chính là Linh Hồn của các ngươi.
Linh Hồn của các ngươi ví như bọt nước, còn
Linh Hồn của ta ví như nước. Bọt nước từ nước sanh ra nhưng bọt nước không biết
Cội Nguồn của mình là nước. Ta là Đại Linh Hồn vũ trụ còn các ngươi là Tiểu
Linh Hồn vũ trụ. Tiểu Linh Hồn từ Đại Linh Hồn mà ra nhưng Tiểu Linh Hồn các
ngươi không biết đường về, bởi gì các ngươi sanh ra mang theo cái tánh vô minh
ấy của ta, trở thành tánh ngu si của các ngươi, cũng từ cái tánh ngu si này,
dẩn dắc các ngươi đến con đường hung ác, con đường Dục Vọng, cấu xé ăn nuốt lẩn
nhau và mãi mãi trong thống khổ Dục Vọng Điên Cuồng.
Không những các ngươi khốn khổ trong cuộc
sống sát phạt, ăn nuốt lẩn nhau mà còn khốn khổ trong sanh tử luân hồi đọa đầy
khắp nẽo. Khốn khổ trong bộ mấy tuần hoàn vũ trụ, Thành, Trụ, Hoại, Không. Linh
Hồn các ngươi phải lại chìm đắm trong lạnh lẽo, tối tăm ở kiếp không hàng trăm
triệu năm.
Linh Hồn của ta ví như nước, Linh Hồn của
các ngươi là bọt nước. Bọt nước với nước chính là một không phải hai, mà là hai
vì Linh Hồn của các ngươi là bọt nước còn Linh Hồn của ta là nước mà thôi. Nước
không xa rời bọt nước, chính bọt nước không biết đấy thôi, Linh Hồn bọt nước
của các ngươi đang sống trong Đại Linh Hồn vũ trụ nước của ta vì bọt nước và
nước không tách rời nhau, nếu bọt nước tách rời khỏi nước thời bọt nước sẽ bị
hủy diệt. Linh Hồn của các ngươi cũng vậy, nếu tách rời khỏi Đại Linh Hồn vũ
trụ của ta thời Linh Hồn các ngưới sẽ bị hủy diệt ngay. Các ngươi nghỉ gì, làm
gì ta đều nghe thấy tất cả, cũng giống như cá sống trong nước, cá làm gì, nghỉ
gì nước đều thấy rõ.
Thân xác của các ngươi là thân xác Cầm Thú,
Bò Sát khó mà tiến hóa lên được nữa, Linh Hồn của các ngươi mãi là Linh Hồn Cầm
Thú, Bò Sát, đầu thai qua lại ăn nuốt sát phạt trả quả cho nhau khổ mãi không
ngừng.
Các ngươi nên nhân cơ hội này xả bỏ xác thân
Cầm Thú, Bò Sát, Linh Hồn đầu thai vào loài người, một thể xác cao cấp thể xác
Tiểu Thiên vũ trụ. Không những Linh Hồn các ngươi tiến hóa rất nhanh trí huệ vô
tận, nhờ thân xác con người các ngươi tiến tới làm chủ được mình, làm chủ vũ
trụ, không những các ngươi thoát khỏi loài Thú, Cầm, Bò Sát, ngu si đần độn.
Được làm người đứng thẳng, đầu đội Trời chân đạp đất, không những các ngươi
thoát khỏi ngu si đần độn, được làm người làm con của ta, các ngươi sẽ thay ta,
trông coi vũ trụ, đầy đủ Thần Thông trí huệ, phước báo pháp lực vô biên, tạo
lập lên thế giới Thiên Đàng Cực Lạc, sống mãi không chết. thoát khỏi Sanh, Lão,
Bệnh, Tử.
Loài nào đầu thai làm người trước, loài đó
sẽ ở ngôi vị Chí Tôn, làm đàn anh của loài người và tiếp theo ngôi vị sẽ phân
theo thứ lớp.
Khi
Đức Long Hoa Cha Trời thuyết giáo xong, liền có 100 Thần Thú, Cầm, Bò, Sát là
những Chúa Tể đứng đầu. Thú, Cầm, Bò, Sát vui mừng khôn xiết liền xả bỏ thể
xác, đầu thai nhập vào bụng Mẹ Âu Cơ. Chúa Tể loài Rồng xả bỏ thân xác nhanh chóng,
đầu thai trước nhất ở ngôi số 1, kế đến là Phụng Hoàng, Khổng Tước, Kỳ Lân ở
ngôi số 2, kế đến là Voi, Sư Tử ở ngôi số 3 rồi đến Ngựa, Trâu, Hổ, Gấu, Khỉ,
Chó, Mèo v.v..(năm ngôi).
Chỉ
riêng có 3 con Chúa Tinh yêu quái đứng đầu, các loài không phải Cầm, không phải
Thú.
Một là loài Chồn Cáo có cánh: tánh đa nghi xảo hoạt, trộm cướp lén lút, thích nữa
tối nữa sáng là lối sống của chúng, nghi ngờ lời thuyết giáo của Đức Cha Trời
nên bỏ cơ hội làm con của Trời.
Hai là loài Thuồng Luồng có cánh: không phải Cầm, không phải Thú, không phải loài Bò
Sát, tánh tình hung dữ đa nghi mưu mẹo ác độc, háo chiến háo sát, chúng hủy
diệt cả tổ tông của chúng là loài Khủng Long. Với cái tính hung ác đa nghi bảo
thủ cao, chúng không nghe lời Đức Cha Trời bỏ mất cơ hội làm con của Tiên Cơ
Địa Mẫu, làm con của Đức Cha Trời.
Ba là loài cây sống lâu năm: đó là cây Mộc Hương, loài cây ăn thịt, loài cây này
chuyên tiết ra mùi hương lạ dụ các loài Động Vật đến, kể cả các loài Cầm Thú.
Chúng cũng được Cha Trời gọi đến nhưng chúng tự cao đến để thực hiện mưu đồ
hưởng lợi từ hai bên Cha Trời Địa Mẫu và các loài Động Vật Cầm Thú, Bò Sát.
Không những chúng không chịu đầu thai mà chúng còn tỏ thái độ ganh ghét, sự cao
sang uy lực, thần thông quảng đại của Đức Cha Trời cũng như Địa Mẫu Âu Cơ.
Đức
Cha Trời, Địa Mẫu Âu Cơ tuy biết thế nhưng cũng để yên cho chúng không phê phán
gì, mà nghỉ chúng là kẻ có lợi cho sự tu luyện, con cái nhà Trời. Muốn tu luyện
mau thành chánh quả phải nhờ cái ác khảo đảo phản tỉnh, có Đại Ác thời mới thấy
Đại Thiện, thấy cái xấu thời mới quí cái tốt, thấy khổ mới đi tìm sự vui, muốn
có Cõi Thiên Đàng Cực Lạc phải thoát ra từ cõi Địa Ngục.
Vì
hiểu thế Đức Cha Trời không làm hại chúng mà còn nói:
Nầy ba con quỷ, Luật Trạng vũ trụ rất công
minh, nếu ngươi thắng được con ta, thời các ngươi có quyền làm chủ vũ trụ.
Ba
con quỷ nghe Đức Cha Trời phán thế không những không cảm ơn mà còn cao ngạo
phóng lên không trung bay đi đầy thách thức. Đức Cha Trời thấy thế liền nở nụ
cười đầy bí hiểm, khó ai hiểu được thâm ý của Trời, bí mật mãi mãi là bí mật.
Từ
khi Chúa Tể của các loài Cầm Thú, Bò Sát đầu thai vào bụng Mẹ Địa Mẫu Âu Cơ để
được làm người, làm con Trời phải trải qua chín tháng trăm ngày mới chào đời,
trong thời gian ấy Đức Địa Mẫu Âu Cơ phải luôn luôn tốm thâu tinh hoa khí hóa
Thiên Địa để nuôi con từng ngày từng giờ, với công lao ấy không có gì đền đáp
nỗi.
Đức
Cha Trời nhìn sự kham khổ của Địa Mẫu liền ngẩm nghỉ. Vì muốn sanh ra nhân loại
con người, lưu truyền nòi giống con người. Để cho muôn loài vạn vật, Côn Trùng,
Thảo Mộc muôn loài Cầm Thú tiến hóa lên, được đầu thai làm người. Tiến hóa Linh
Hồn trở về Nguồn Cội giải thoát sanh tử, khốn khổ.
Địa
Mẫu Âu Cơ mang thai theo quy luật tự nhiên của phàm trần, theo thời kỳ ấy, thời
những người con của Địa Mẫu mới ở lại sống trong chốn nhân gian, nơi quả Địa
Cầu này, một thứ khổ, mang thai, sanh con, nuôi con mà Địa Mẫu Âu Cơ là người
đầu tiên trải qua kham khổ, khổ nhọc ấy.
Thật
ra mà nói với Thần Lực của Đức Cha Trời và Địa Mẫu thời không cần mang thai đẻ
con lâu như vậy (mà chỉ cần nháy mắt là
tạo ra hàng loạt con người). Nhưng những con người đó chỉ là những con
người bằng pháp thuật không phải con người trần tục, xác thân phàm trần, ăn
uống đói khát theo quy luật tự nhiên, sanh con đẻ cháu lưu truyền nòi giống con
người, chịu kham khổ tu hành tiến hóa, lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn, tiến
lên cảnh giới Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa lối sống có nhân có quả, gieo Thiện
gặt Thiện, gieo ác gặt ác, gieo phúc gặt phúc, gieo họa gặt họa theo quy luật
tự nhiên.
Vì
vậy để khai tạo ra con người phàm tục, sống chung với muôn loài vạn vật, Đức
Địa Mẫu Âu Cơ phải trải qua sự khốn khổ mang thai, nuôi thai, sanh con đều trải
qua sự khốn khổ lâu dài. 9 năm 9 tháng 100 ngày mới khai hoa nở nhị.
Đức
Địa Mẫu Âu Cơ đã biết sắp đến giờ sanh nở, bằng nói với Đức Long Hoa Cha Trời
rằng:
Ông hãy ban cho con cái lời nguyền Hồng Phúc
đi.
Đức
Long Hoa Cha Trời nhìn về vũ trụ giang sang rộng lớn của mình, chưa có người
trông coi và sáng tạo thêm cho xinh đẹp. Lập thành các cõi nước trời trang
nghiêm. Đức Cha Trời lại nghỉ rằng. Ta là hiện thân của Đức Tổ Tiên, đấng tối
cao vũ trụ, đấng chúa của Linh Hồn và vật chất. Ta cũng cần có người kế nghiệp,
đó chính là con cái của ta, thay thế ta làm chủ vũ trụ. Đức Cha Trời lại nghỉ,
pháp thân ta vô cùng vi Diệu khó mà nghỉ bàn. Đó là Cội Nguồn của tất cả Trời
Đất, vạn vật sanh linh cùng vũ trụ, pháp thân ta là pháp thể Đại Đồng, Tự Do,
Bình Đẳng. Hiến Pháp công đạo vũ trụ, ta cũng cần có người thay thế, duy trì
Công Đạo vũ trụ, cầm cân này mực phân minh.
NÊN ĐỨC CHA TRỜI PHÁN TRUYỀN RẰNG:
Này hỡi các con của ta, khi các con chào đời
sẽ vang tiếng sấm trí tuệ, tiếng sấm Chúa Tể của muôn loài. Các con sẽ có trí
Huệ, sáng hơn mặt trời, sáng hơn hào quang của ta, các con sẽ trở thành Phật,
Thánh, Tiên vào ba ngôi báu của ta. Đó là Pháp Tạng, Thiên Tạng, Luật Tạng vào
ngôi Chí Tôn, thay thế ta điều hành vũ trụ và lập lên các cõi nước Trời các
Thiên Đàng Cực Lạc làm cho Tam Thiên, Đại Thiên vũ trụ mỗi ngày một thêm rực rỡ
xinh đẹp trang nghiêm.
Lời
nguyền của Đức Long Hoa Cha Trời vừa dứt, thời Địa Mẫu Âu Cơ đã sanh ra một bọc
to lớn khổng lồ, sau đó là một tiếng nổ kinh thiên động địa, chấn động toàn vũ
trụ. (Tiếng sấm Đại Đồng) kế theo là
một trăm tiếng sấm nổ làm chấn động liên miên vũ trụ như muốn đến hồi sụp đổ.
Như báo hiệu cho tất cả muôn loài vạn vật biết là nhân loại con người đã ra đời
thay thế cha ông làm chủ vũ trụ, cai quản thế giới vật chất cũng như thế giới
Linh Hồn, kế tục và gìn giữ cơ nghiệp vũ trụ của Ông Cha. Các loài Cầm Thú, Bò
Sát vô cùng hoảng sợ, khiếp đảm khi nghe tiếng sấm vang dậy liên tiếp nổ ra làm
rung chuyển cả Trời Đất, chấn động không gian vũ trụ, chúng linh cảm là hàng
loạt Chúa Tể con người đã ra đời, từ đây chúng sẽ bị cai trị.
Chúng
thấy trùng trùng điệp điệp muôn Đạo Hào Quang tỏa lên từ đỉnh núi Long Hoa
không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chúng liền bay lên không trung hướng về ngọn
núi Long Hoa, mỗi lúc một dữ dội. Âm thanh sấm nổ cứ vang rền mãi không dứt.
Làm rung động cả núi rừng, cả năm châu bốn bể.
Nhất
là ba con Quỷ tâm Hồn hoảng loạn run sợ không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chúng
liền bay lên không trung hướng về ngọn núi Long Hoa bay tới thời hết sức kinh
hoàng. Một trăm người con của Đức Cha Trời đã ra đời.
Những
tia hào quang tỏa ra từ trăm người con của Đức Cha Trời, làm chúng đau đớn ngạc
thở. Như hàng vạn mũi kim đâm vào tim chúng, làm chúng hoảng sợ khiếp kinh ẩn
mình trốn thoát không dám quay đầu nhìn lại nữa.
Khi
ấy những dòng sữa của Đức Mẹ Địa Mẫu Âu Cơ tuông chảy ra và mọc lên hàng loạt
ngũ cốc, dần dần lan ra khắp cùng mặt đất. Khi con người đi đến đâu, thời nơi
đó có dòng sữa Mẹ ngũ cốc để sinh sống.
Đức
Long Hoa Cửu Huyền Cha Trời nói:
Này Bà, không bao lâu nữa thời dãy núi Long
Hoa sẽ bị sụp. Đất đai phương Đông này, động đất dữ dội. Lục Địa giãn nở tách
ra, phần lớn đất đai biến thành biển cả sông Hồ. Ở phương Tây cũng như trung
Đông nước cạn dần và lộ ra những đất đai bằng phẳng. Phương Đông phần lớn ngập
chìm trong biển nước, dãy núi Long Hoa bị sụp. Vì vậy sự sống của dãy núi cũng
như sự sống của con cái không được an toàn.
Chúng ta dẩn con cái về phương Bắc của dãy
núi, tức là địa phận Quảng Đông Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, nói chung là bao
trùm hầu hết miền Giang Nam Lãnh Nam Trung Quốc, giáp liền với sông Trường Giang,
đất đai ở đây bằng phẳng, cây cối sum sê, hoa hiền trái ngọt, phía Đông Nam dãy
núi Long Hoa địa chấn sụp xuống thành biển, nơi đây tuy có sụp nhưng vẫn an
toàn con cái.
Thế
là Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng Địa Mẫu Âu Cơ bay lên không trung phất tay
một cái. Tức thời trăm người con bay lên không trung theo Cha mẹ bay về phương
Bắc của dãy núi, hạ xuống gần Nam sông Trường Giang bây giờ. Nơi đây đất đai
bằng phẳng, cây cối sum sê, sông hồ kinh rạch, núi rừng đều thuận tiện cho cuộc
sống. Bốn mùa, tám tiết, Xuân, Hạ, Thu, Đông lúc nào cũng có hoa quả sum sê bảo
tồn nòi giống con người.
Nhìn
những dãy đồi mênh mông xa thẳm sông suối nước trong ven vét. Địa Cuộc Rồng
nằm, Hổ phục, Qui định, Phụng an, Chim muôn vạn Thú ở đây đông vô số vô biên,
nhất là loài khỉ, loài vượn, loài Tinh Tinh, hàng vạn vạn con. Một hôm Đức Cha
Trời Lạc Long Quân cùng Địa Mẫu Âu Cơ nhìn trăm người con đã lớn, uy nghi như
sứ Thần Tạo Hóa. Đức Địa Mẫu Âu Cơ nhìn đàng con khôn lớn, chúng có thể nghe có
thể hiểu, bằng nói Ông hãy dạy bảo cho con đi.
Đức
Cha Trời Lạc Long Quân thường thấy các con không được đoàn kết cho lắm, luôn
luôn phân biệt màu da. Da vàng theo da vàng, da trắng theo da trắng, da đen
theo da đen, da đỏ theo da đỏ, da chàm theo da chàm, luôn luôn phân biệt chia
rẽ nhau.
Đức
Cha Trời Lạc Long Quân phán rằng:
Này hỡi tất cả con của ta, các con từ một
bọc mà ra, tuy các con khác màu da nhưng các con chung cùng một Cội, một Cha,
một Mẹ, một Tổ Tiên, một chiếc nôi Quả Địa Cầu, một ngôi nhà chung vũ trụ. Các
con là anh em, các con phải biết thương yêu nhau, đùm bọc nhau để mà sống, các
con phải có tinh thần đoàn kết. Tôn trọng lẩn nhau, đối xử với nhau thật Bình
Đẳng, tôn trọng quyền Tự Do, quyền Tự Chủ, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Trong cái riêng có cái chung, cái chung chính là Hiến Pháp Đại Đồng. Sẽ khởi
sanh ra Luật Pháp bảo vệ cái riêng của các con. Các con phải có tấm lòng Quảng
Đại, có chí nghĩa Nhân, có lòng hiếu thuận đối với Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ,
biết thương yêu đồng loại, nòi giống Tiên Rồng.
Trung thành lẻ công, bảo vệ cái riêng, đã là loài người, đầu đội trời
chân đạp đất, nòi giống Tiên Rồng. Thời các con phải khác với loài Cầm Thú, Bò
Sát. Các con phải sống chân thật, khác với loài Cầm Thú, lừa dối phỉnh gạt lẩn
nhau. Các con phải lấy nhơn Đức làm đầu, tha thứ cho nhau khi có lỗi, nâng đở
nhau khi lâm nạn, lúc đói khổ. Đoàn kết là lối sống văn minh, chia rẽ là lối
sống Địa Ngục, biết yêu thương con cái, biết hi sinh vì đại nghĩa, luôn luôn
hướng về Cội Nguồn. Phụng thờ Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu cho con cái noi theo,
đừng để lạc mất Cội Nguồn, chăm lo và giữ gìn Đức tánh con người luôn luôn
hướng thiện, (xem Kinh Nhơn Luân).
Nhờ các con luôn luôn hướng thiện nên các
con tìm thấy Cội Nguồn. Trở về Tạo Hóa lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Đó là
ngôi Phật, ngôi Thánh, ngôi Tiên. Nếu các con có công lớn trong Văn Hóa Cội
Nguồn trong việc truyền giáo độ sanh. Thời các con sẽ lên ngôi Chí Tôn vô
thượng phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Chúa.
Nếu các con nghe theo lời dạy của ta chỉ cần
được một nữa. Thời các con sẽ được làm vua, làm Chúa, phạm Thiên, Đế Thích ở
các tần Trời. Hưởng phước quả, hạnh phúc vô tận vô biên. Sống trên Châu Báu tột
đỉnh của sự giàu sang.
Nếu các con chỉ cần làm được một lời ta dạy.
Thời các con sẽ được làm Vua làm Chúa nơi chốn phàm trần. Nếu các con làm theo
hai ba bốn lời ta dạy, thời các con sẽ là Vua lớn trên các Vua Chúa lớn trên
các Chúa nhỏ.
Nếu các con chỉ cần nghe theo một lời ta
dạy, chỉ được một thời gian, nhất là thời gian ở cuối đời. Thời các con sẽ được
làm các vị Thần may mắn, vị Thần của sự giàu sang, vị Thần hạnh phúc, vị Thần
uy lực, vị Thần Trí Huệ. Công danh địa vị rực rỡ, huống chi các con làm theo
trọn một lời cha dạy, nhiều lời cha dạy, thời phước báo không thể nghỉ bàn, có
thể nói mãi mãi làm Vua, làm Chúa ở nhân gian, cũng như ở các cõi Trời, sống
mãi trên cung vàng Điện ngọc.
Nếu các con chỉ cần nghe qua rồi nhớ 1, 2
điều, trọn đời không quên thời các con sẽ được làm các vị Thần, Thiên Thần ở
các cõi trời, muốn chi đặng nấy, cầu chi đặng nấy, đặng nhiều phép lạ để vui
chơi. Nếu các con nghe những điều ta dạy, tuy chưa làm theo, nhưng không làm ác
thời các con sanh lên các cõi Thiên Đàng Cực Lạc, làm Chư Thiên, Thiên Chúng
làm dân ở cõi Trời, tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có mặc, muốn cái gì có cái đó.
Nếu các con chỉ cần khen một lời ta dạy,
thời các con sẽ được làm các vị Thần ở chốn nhân gian như: Thần Núi, Thần Rừng,
Thần Sông, Thần Biển, Thần Mưa, Thần Gió, Thần Lửa, Thần Tuyết, Thần Thổ Địa,
Thần Tài. Nếu có công ca ngợi Văn Hóa Cội Nguồn khi mãn số sẽ được thăng lên
Thần Mặt Trời, Thần Mặt Trăng, Thần Sao Hôm, Sao Mai và các vị Thần Tinh Tú
khác.
Nếu các con chỉ cần truyền lại một lời dạy
của ta, thời đời đời kiếp kiếp ta sẽ luôn luôn phù hộ cho con, cho đến khi nào
con ngộ được chân tâm thấy được chân tánh trở thành Phật, Thánh, Tiên.
Nếu các con tôn thờ ta, truyền lời dạy ta
dạy cho thế hệ sau, thời các con sẽ trở thành Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Chúa, lên
ngôi Chí Tôn vô thượng, Chánh đẳng Chánh giác, làm chủ vũ trụ.
Này
các con của ta:
Nếu các con làm ngược lại lời ta dạy, thời
đi vào bất hiếu, nghịch Thiên, tai họa giáng xuống không sao kể xiết, các con
sẽ biến thành Quỷ dữ, Ma Tinh, các con sẽ trở thành chủ nhân của bóng đêm, chủ
nhân của sự chết chóc, các con sẽ tạo ra thế giới Địa Ngục, thế giới đau khổ
không sao tả nổi, thế giới của sự chém giết, ăn sắt uống đồng, sự thống khổ
không một giờ nghỉ.
Nếu các con đi theo con đường ác, thời Chúa
Tể của u minh sẽ sai Đại ác Quỷ ăn tinh, hút khí của các con. Làm cho các con
kiệt sức vì chiến tranh. Chúng sẽ biến tâm hồn của các con thành tâm hồn ác Quỷ
của chúng. Tham lam, gian trá, hận thù và sát phạt tàn sát lẩn nhau. Chúa Tể u
minh sẻ biến các con thành những linh hồn ngu si. Mãi Mãi làm nô lệ cho chúng.
Chiến tranh tàn sát là thú vui của chúng. Thế Giới đau khổ, những Địa Ngục sát
phạt dã man nhất. Chính là Vương Quốc của chúng. Khoái lạc của chúng là sự chia
ly, chết chóc, bệnh tật, tù đày. Keo kiệt, tham lam, ganh tị, hận thù, là cửa
ngõ u minh. Bước vào thế giới đau khổ, thế giới của sự khảo tra áp bức đến kinh
người. Chúng không bao giờ muốn các con tiến lên cảnh giới của Phật, Thánh,
Tiên, vào ba ngôi Báu của Trời. Ba ngôi Báu ấy luôn luôn tỏa ánh sáng tâm linh
làm chúng khiếp sợ.
Nếu các con đi ngược lại lời dạy. Không những
các con đi vào cảnh giới đau khổ. Không bao giờ nhìn thấy thế giới Thiên Đàng
Cực Lạc. Cũng như không bao giờ nhìn thấy thật tướng, thật tánh Linh Hồn của
các con. Vĩnh viễn không thấy được Cội Nguồn. Mãi mãi đọa lạc trong luân hồi
sanh tử. Các con chỉ thấy sự giã dối, sự chết chóc. Chiến tranh, áp bức, bệnh
tật, già nua. Và sự tàn sát chém giết, ăn nuốt lẩn nhau. Các con luôn luôn nếm
đủ mùi cực nhọc khốn khổ và đau đớn. Đau đớn về thể xác, đau đớn về Linh Hồn.
Đau đớn cảnh nồi da nấu thịt. Cảnh cha khóc con, vợ khóc chồng, anh em cấu xé
tàn sát lẩn nhau. Nước mắt của các con, kiếp nầy sang kiếp khác. Cọng lại sẽ
nhiều hơn một Đại Dương.
Các con hôm nay đã được làm người. Lại là
con của ta. Hai đấng Tiên Rồng Tối Cao Vũ Trụ, sự nghiệp giàu sang vô tận. Cái
giàu không sao kể xiết, vàng, bạc, Châu Báu vô tận. Đầy cả Hư Không, Tam Thiên
Đại Thiên thế giới. Đó là các cõi nước Trời. Các con hôm nay đã là con của ta.
Chỉ cần nghe lời của ta dạy. Thời các con sẽ thay ta làm chủ Vũ trụ. Sống trong
bất tử và sự giàu sang. Nếu các con không nghe lời thời đáng tiếc biết bao.
Hỡi các con ta là Đấng Cha Trời. Đấng biết
trước. Những gì xảy ra trong tương lai ta đều thấy rõ biết rõ. Vì vậy các con
phải tuyệt đối tin tưởng ta. Vì ta là Chúa Tể vũ trụ. Đấng thương yêu các con
hơn hết.
Những gì nơi vũ trụ. Cha đã tạo ra, đều là
của các con. Nhưng các con muốn có được nó. Thời các con phải có Tài, có Trí, có
Đức. Biết áp dụng khoa học kỷ thuật. Nguyên lý thuận nghịch, biến ảo vũ trụ,
vận dụng sức mạnh vũ trụ, làm sức mạnh của mình. Thời các con mới làm chủ được
nó. Đó là nói đến những người con, người cháu có Đức, có tâm, có trung, có hiếu
đối với Tổ Tiên Cội Nguồn, nghe theo và làm theo lời ta dạy.
Còn những kẻ nghịch Thiên, đi ngược lại lời
ta dạy. Dù có làm nhiều, ra sức nhiều, tốm thâu, bầu vét khắp thiên hạ vũ trụ,
cuối cùng cũng chỉ là trắng tay. Nếu các con nghe lời dạy của ta, các con sẽ
luôn luôn gặp ta ở khắp mọi nơi, che chở và diều dắt các con. Dù cho các con có
trải qua vô lượng ức kiếp sanh tử, ta cũng theo sát các con, hộ trì các con,
cứu khổ các con, làm cho trí huệ các con mỗi ngày mỗi thêm tỏa sáng, làm chủ
được tâm, làm chủ được tánh. Phát Đại Nguyên rộng lớn tận độ vô tận, vô biên,
lớp lớp con cháu nhân loại các thế hệ sau vào ngôi vị Chí Tôn Chánh Đẳng, Chánh
Giác. Các con Hạnh Nguyện viên mản, bọt nước trở về là nước, Tiểu Linh Hồn trở
về Đại Linh Hồn vũ trụ, bản nguyên là đấng Tạo Hóa Tổ Tiên vũ trụ, đấng Tạo lập
lên tất cả.
Đức
Địa Mẫu Âu Cơ thấy 100 người con chăm chú lắng nghe Đức Cha Trời Lạc Long Quân
dạy bảo lấy làm vui vẽ, thời nghỉ rằng chúng nó đã lớn, có thể tự lập sanh
sống, không cầm nương dựa vào Cha Mẹ nữa. Biết mình không thể ở lâu nơi này.
Đức Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ chia hai con cái. 50 con theo Cha làm
quen với biển, 50 người con theo Mẹ làm quen với núi rừng.
Đức
Cha Trời Lạc Long Quân dẩn 50 người con Trai làm quen với biển, từ biển này
sang biển khác, từ đảo nọ sang đảo kia, từ Đông sang Tây rồi trở về chỗ củ. Đức
Mẹ Âu Cơ cũng thế, Đức Mẹ dẩn theo 50 người con gái, hết núi rừng này sang núi
rừng khác, hết núi rừng phương Đông rồi đến núi rừng phương Tây rồi dẩn con về
chỗ củ.
Đức
Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ dẩn con khắp cùng trái đất, năm châu bốn
biển bằng con đường hàng không đi trên mây, tham quan khi cần thời hạ xuống núi
xuống rừng, xuống biển xuống đảo. 100 người con của Đức Âu Cơ, Lạc Long Quân
thấy nào là biển rộng mênh mông, nào là núi cao chót vót, nào là rừng xanh thăm
thẳm bạt ngàn, nào là đảo biển lô nhô xanh um giữa biển cả mênh mông. Cảnh đẹp
như tranh, đất liền sông Hồ uốn khúc, không những tham quan trên biển đảo, núi
rừng mà còn tham quan nơi đáy biển, các Động tuyệt đẹp nằm sâu trong lòng núi.
Đúng
là trên khô ôi là Chim muôn vạn thú, đáy biển mênh mông ôi là chen chúc cá lội
tung tăng, nào hang Động, thát nước phủ màn lụa trắng. Hết tham quan trái đất,
Cha Trời, Địa Mẫu dẩn con tham quan đến các vì sao gần trái đất, thấy dẩn các
con tham quan đến đây là đủ, hai người dẩn các con trở về trái đất, trở về chỗ
củ.
Trước
khi từ giã con cái, Đức Cha Trời Lạc Long Quân dạy bảo lần cuối cùng. Này các
con:
Quả Địa Cầu này tuy là rất đẹp, Quả Địa Cầu
Cha tạo ra sau cùng, khi Cha tạo lập vũ trụ, Tam Thiên Đại Thiên thế giới, Quả
Địa Cầu này chỉ là Quả Địa Cầu trần tục, khí hóa ô trược cặn bả của Hậu Thiên
khí hóa, các con đang sống trong cõi trần giã tạm, không phải là cõi vĩnh hằng,
thân xác các con cũng thế, cũng chỉ là thân xác phàm tục khác với thân xác của
Cha, Mẹ đây, thân xác Tiên Thiên Tinh Hoa vũ trụ.
Khi các con tu luyện tiến hóa Linh Hồn thành
tựu, trí huệ giác ngộ, Đạo Đức, nhân hạnh cao các con sẽ bỏ xác phàm, Linh Hồn
siêu lên Thượng Giới, thời các con sẽ có thân xác Tiên Thiên, biến hóa như ý,
các con muốn già thời nó già, các con muốn trẻ thời nó trẻ, các con muốn nó lớn
như quả núi thời nó lớn như quả núi, các con muốn nó nhỏ như cây kim thời nó
nhỏ như cây kim. Nói chung ý tưởng các con muốn gì thời pháp thân các con ứng
hóa theo nấy, dạo chơi khắp cùng vũ trụ, Tam Thiên Đại Thiên thế giới, các con
hảy ghi nhớ lời ta dặn, cố gắng tu luyện tiến hóa Linh Hồn, sớm mau trở về Cội
Nguồn làm chủ vũ trụ.
Trước
khi Hai Đấng Tiên Rồng từ giã con cái, đưa tay chỉ về ngọn núi Long Hoa nói:
Cuối tiểu kiếp thứ 9, sắp chuyển sang tiểu
kiếp thứ 10, các con hãy khiến con cháu của các con đến dãy núi Long Hoa ấy làm
nhà Rồng Tiên.
Nói
xong Hai Đấng Tiên Rồng bay lên không trung ẤN dấu Cốt Tiên Rồng xuống ngọn núi
Long Hoa, Hai Đấng Tiên Rồng bay xuống đất ôm lấy con lần cuối.
Hai
tòa sen báu như trái núi nhỏ hào quang rực rỡ, không biết hiện ra từ lúc nào,
Hai Đấng Tiên Rồng từ từ bay lên tòa sen, bầu trời đang sáng bổng nhiên tối
sầm, thế gian rơi lệ vì Hai Đấng Tiên Rồng ra đi. Hai tòa sen báu từ từ bay vào
chốn không gian rồi mất hút trước sự ngơ ngác của 100 người con, 200 con mắt
nhìn theo, nhìn theo mãi.
Bầu
trời hôm qua đã khác với bầu trời hôm nay, bầu trời hôm qua là bầu trời mùa
Xuân, bầu trời hôm nay là bầu trời mùa Đông, cái lạnh bơ vơ, mồi côi mồ cút,
trên nẽo đường vạn dặm của cuộc đời. Nhân loại anh em sẽ đi về đâu, Ông Bà Tổ
Tiên chúng ta làm gì để sống và tồn tại như thế nào.
(Xem Kinh Long Hoa sẽ hiểu rõ hơn).
Có
thể nói Văn Hóa Cội Nguồn, Nền Quốc Đạo Tiên Rồng triết lý, lịch sử cao thâm,
lời lẽ khuôn mẫu như thế, chỉ truyền khẩu cho nhau, từ thế hệ này sang thế hệ
khác, kéo dài đến mấy nghìn năm, thử hỏi làm sao không sai lệt cho được, vì thế
cốt cán cơ bản tinh hoa của Nền Quốc Đạo Tiên Rồng dần dần bị mất gốc.
Có
thể nói buổi ban đầu Quốc Tổ truyền giáo là Rồng, càng về sau con cháu thuyết
kể ra loài Rắn nước, rồi bị ngoại xâm thêm bớt, con cháu ghi chép sai đã biến
Văn Hóa Cội Nguồn trở thành văn hóa con giun. Từ một lịch sử Cội Nguồn tốt đẹp
rồi trở thành một truyền thuyết mơ hồ, ánh sáng chân lý Cội Nguồn đã tắt. Từ
đây con cháu Tiên Rồng sa vào cảnh tối tăm, dẩn đến nô lệ, chiến tranh truyền
miên khó mà kết thúc, cảnh nồi da nấu thịt, đói nghèo lạc hậu khổ thay.
*********
Hết
phần 2 chương 2 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 3 chương 2.
Cái khổ nào hơn khổ lạc Nguồn
Họa cùng khắp nẻo khó qua truông
Non sông tổ quốc đầy u ám
Ngoại xâm thôn tính nghĩ mà thương.
CHƯƠNG 2
PHẦN 3
MẶT TRỜI CHÂN LÝ LẶNG BÓNG ĐÊM TRÙM
XUỐNG NHÂN GIAN
Vào
110 trước Công Nguyên lúc đó giấy bút thô sơ mới được ra đời, cho đến 542 sau
Công Nguyên mới có dịp hương thịnh nhưng chưa tinh vi mấy. Cũng từ đây các học
giã yêu nước Việt Nam hồi tưởng về Cội Nguồn, tìm tòi qua sự thờ cúng, truyện
kể, thơ ca, hò vè khắp mọi miền đất nước, rồi đúc kết viết lên lịch sử Tiên
Rồng một cách mơ hồ làm mối ghiền đoàn kết dân tộc, chung lòng chung sức, bảo
vệ giữ gìn quê Cha đất Tổ, đánh đuổi ngoại xâm. Nhưng tiếc thay các Ngài chỉ là
người thường tục, chưa tu luyện Đắc Đạo nên không có Huệ Nhãn, Pháp Nhãn thấu
suốt quá khứ vi lai, khó mà thấy rõ sự sai lệt trong Văn Hóa Cội Nguồn qua sự
truyền khẩu, truyện kể, thờ cúng, thơ ca hò vè, liền cho đó là bản nguyên Văn
Hóa Cội Nguồn. Rồi kết thành sử liệu để cho đời sau, sự truyền khẩu qua nhiều
thế hệ, thêm bớt làm cho Văn Hóa Cội Nguồn biến dạng mất gốc, có nhiều điểm sai
sự thật, dựa vào đó mà kết thành sử liệu thời cũng sai, cái sai dây chuyền.
Cũng
từ đây Văn Hóa Cội Nguồn mất gốc, trở thành truyền thuyết mơ hồ, anh sáng Văn
Hóa Cội Nguồn đã mất, mặt trời chân lý đã tắc, bóng đêm trùm xuống con Cháu Lạc
Hồng kể từ đời AN DƯƠNG VƯƠNG trở xuống.
41
đời Hùng Vương kết thúc, thời những gì tinh hoa Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại
cũng theo Vua Hùng biến mất luôn. Từ thời AN DƯƠNG VƯƠNG trở xuống, đến thời
Hậu Lê cuối thế kỷ thứ 17 sau công nguyên, kéo dài hơn 2000 năm. Các học giã
của mỗi triều đại đi qua, mỗi khi tìm hiểu về truyện kể, thờ cúng, thơ ca hò
vè, thêm bớt cho hợp tình hợp lý rồi đúc kết thành sử liệu.
Nhưng
học giã có biết đâu, việc thêm bớt Văn Hóa Cội Nguồn vốn đã sai mà vẽ Rồng vẽ
Rắn thêm bớt cho phù hợp tình thế, thời dẫn đến tai hại hơn nữa, chỉ cần ghi
chép sai về Văn Hóa Cội Nguồn một li thời cái sai đã đến hàng vạn dặm, đưa lịch
sử Tiên Rồng vào chỗ vô lý, nghi ngờ không đáng tin.
Lịch
sử Tiên Rồng truyền khẩu kéo dài từ thời Hùng Quí Lân đến thời Hùng Duệ Vương
kéo dài 2622 năm. Sự truyền khẩu càng về sau. Sự mất đầu, mất đuôi sai lệt càng
nhiều. Không còn đúng Văn Hóa Tinh Hoa Hiến Pháp Văn Lang, Nền Quốc Đạo nữa. Mà
Quốc Tổ Hùng Vương đã truyền lại cho con cháu chúng ta cách đây gần năm nghìn
năm.
Các
học giã từ thời AN DƯƠNG VƯƠNG trở xuống, khi tìm hiểu về Văn Hóa Cội Nguồn
Tiên Rồng. Liền gặp phải bao sự khó khăn. Vì sự truyền khẩu có nhiều điểm không
giống nhau. Đưa người đọc, người nghe đến chỗ phân vân, sanh ra nhiều nghi vấn.
Lắm lúc sanh ra ý niệm tội lỗi. Phỉ bán Cội Nguồn dân tộc, tai họa liền gián
xuống. Nhà tan cửa nát con cháu ly tán. Khổ ơi là khổ.
Các
học giả chỉ dựa theo suy đoán của mình, dẫn đến kết tập sử liệu. Đưa Văn Hóa
Cội Nguồn chuyển sang giai đoạn giả tưởng. Vô tình mở màn nội chiến. Mở màn cho
các thế lực ngoại xâm. Truyền thống mất, Văn Hóa Cội Nguồn mơ hồ không đủ cơ sở
lý luận vững chắc, thiếu đi mạch lạc khoa học,Văn Hóa Cội Nguồn có nhiều điểm
bất ổn.
Dựa
vào nhược điểm bất ổn này. Lại thêm lòng tin của Đại Đa số con cháu phân vân gió
chiều nào ngã theo chiều ấy. Đây là cơ hội cho các học giã nước ngoài, thuộc hạ
cao cấp chính trị với tính toán mưu đồ ngoại xâm. Họ góp ý thêm bớt sữa chữa
tưởng chừng như là thiện chí. Nào hay đâu đó là một âm mưu lớn. Ếm đối tài
tình, chồng chất thêm nhiều mâu thuẩn. Càng học càng thấy nhiều phi lý rồi trở
thành mất gốc hẳn.
Một
dân tộc mất đi Văn Hóa Cội Nguồn mất đi bản sắc dân tộc. Thời sức mạnh tinh
thần dân tộc ấy sẽ bị yếu ớt, suy giảm đoàn kết dân tộc. Đó là lúc thuận lợi
cho cuộc mưu đồ xâm lược ngoại ban. Xâm lược bằng học thuyết, kèm theo văn hóa
nghệ thuật. Nhất là xâm lược một loại văn hóa độc hại. Làm cho tinh thần đi vào
sa đọa. Xâm lược bằng vũ lực, biến dân tộc ta trở thành dân tộc nô lệ. Cụ thể
hơn một nghìn năm, dưới ách thống trị của Tàu. Hơn trăm năm dưới sự cai quản
của Tây. Lại thêm nồi da nấu thịt từng ngày. Càng thêm lạc hậu đọa đày gian
truân.
*********
Hết
phần 3 chương 2 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 4 chương 2.
Việt Nam con cháu Tiên Rồng
Trở về Nguồn Cội lẫy lừng năm châu
Văn Lang Văn Hóa cao sâu
Anh linh truyền thống rạng bầu tinh hoa
Lạc Nguồn lạc Cội Ông Cha
Hết mong độc lập đọa sa khốn cùng
Nghìn năm nô lệ tan thương
Cũng vì lạc Cội mất Nguồn mà ra.
CHƯƠNG 2
PHẦN 4
THÀ MỘT SỰ ĐÚNG CÒN HƠN MỘT THÚNG SAI
Thà
giữ lấy một điều đúng còn hơn ôm trọn một thúng sai. Như chúng ta đã biết, các
học giã của các triều đại. Mỗi khi dựng dậy Hồn Thiên dân tộc, phải dựa vào Văn
Hóa Cội Nguồn. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn đã thất truyền từ lâu. Khi các học giã
nhất là thời Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê. Nổ lực ngày đêm không mệt mỏi. Tìm hiểu về
Cội Nguồn Tiên Rồng cũng như về gia thế Hùng Vương liền gặp phải bao sự khó
khăn. Nhưng không thể vì sự khó khăn ấy mà các học giã lại bỏ qua. Thu nhập
chứng cứ, qua thờ cúng, truyện kể, thơ ca, hò vè. Tôm gốp lượm lặc dù đúng hay
sai cũng quí giá cả, đúc kết thành sử liệu.
Như: (Lỉnh Nam Chính Quái), (Việt Điện U
Linh), (Việt Sử Lược), (Đại Việt Sử Toàn Thư) và còn nhiều bộ sách khác nữa
v.v… Sự thêm bớt qua các sử liệu, sự mâu thuẩn các câu truyện kể, sai lệch về
thờ tự không chỗ nào giống chỗ nào.
Tuy
sử liệu để lại nhiều như vậy, nhưng Văn Hóa Cội Nguồn vẫn không mấy sáng sủa,
chỉ là con đôm đốm không đủ sức soi đường mở lối cho con cháu đi theo. Tuy ánh
sáng Văn Hóa Cội Nguồn có lúc chỉ là con Đôm Đốm nhưng cũng khó khăn cho con
Cháu gìn giữ tôn thờ, tuy chỉ còn một phần đúng. Còn hơn ôm trọn một khối sai.
Tôn Thờ Văn Hóa Độc Hại ngoại xâm, làm ngu si mù quán dẫn đến nô lệ.
Một
khi nô lệ, thời dân ta mất hết những Quyền cơ bản mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho
mỗi con người, cho mỗi dân tộc, Quyền Độc Lập, Quyền Tự Do, Quyền mưu cầu hạnh
phúc, Quyền sống, Quyền được sống. Nếu chúng ta khơi dậy và đòi lại những quyền
cơ bản ấy, thời thế lực thống trị ngoại ban áp chế đàn áp ngay. Nhất là chúng
ta khơi dậy Văn Hóa Cội Nguồn, thời thế lực ngoại xâm dập tắc tiêu diệt ngay.
Vì họ sợ dân ta vốn mang hai chữ Đồng Bào, Đoàn Kết nổi dậy đánh đuổi chúng ra
khỏi Non Sông Tổ Quốc. Các thế lực ngoại xâm rất sợ văn hóa Chủ Nghĩa Tiên Rồng.
Vì Văn Hóa Cội Nguồn chính là Văn Hóa Đại Đồng, có sức mạnh dời non lấp biển.
Một thứ Văn Hóa Linh Thiên, có một không hai trong nhân loại con người.
Văn
Hóa Cội Nguồn sống dậy. Mặt Trời Nhân Nghĩa Đạo Đức tỏa sáng, làm khiếp đảm tà
ma ác Đạo của các thế lực ngoại xâm. Cơ may cho các thế lực ngoại xâm, vì Văn
Hóa Cội Nguồn đã bị thất truyền nên chúng mới có cơ hội xâm lược nước ta. Chúng
dựa vào yếu điểm mất gốc Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Dân Tộc làm cái cớ để
bài xích dập tắt Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại. Hầu mong cai trị ta vĩnh viễn.
Văn
Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng là một Chủ Nghĩa cao tột, không có một Chủ
Nghĩa nào có thể vượt qua. Văn Hóa Tiên Rồng là Văn Hóa Linh Thiên tối thượng.
Một dân tộc đi đôi với truyền thống Linh Thiên như thế, thử hỏi ngoại xâm không
sợ truyền thống Tiên Rồng sao được. Nên ngoại xâm lúc nào cũng muốn tiêu diệt
đi để dễ bề xâm lược. Chúng cố tìm sơ hở, sự thất truyền trong Văn Hóa Cội
Nguồn của chúng ta để mà bài xích. Biến truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn chúng ta
thành truyền thống, từ Văn Hóa Rồng thành văn hóa con gium để chúng xơi, chúng
đạp dưới chân của chúng.
*********
Hết
phần 4 chương 2, mời xem tiếp phần 5 chương 2 Long Hoa Mật Tạng, bộ kinh tối
cao, quốc bảo của toàn thế giới nói chung, dân tộc Việt Nam nói riêng. Chỉ cần
đọc qua một lần không những tội ác vô lượng kiếp tiêu tan, mà còn thành Phật,
Thánh, Tiên, Thần, Chúa, không gì là khó . Nếu biên chép in ấn truyền bá cho
đời, thời không gì phước đức hơn. Ông Bà, Cha Mẹ siêu thăng về các cõi trời
hưởng phước, con cái cháu đời đời vinh hiễn, còn bản thân thời thường làm vua
các cõi trời giáo hóa vô lượng vô biên thiên chúng. Uy danh khắp cùng vũ trụ.
CHƯƠNG 2
PHẦN 5
CÂY CÓ GỐC NỞ CÀNH XANH NGỌN
NGƯỜI MẤT NGUỒN PHƯỚC CẠN ĐỨC KHÔ
Các
thế lực ngoại xâm luôn luôn đánh phá bài bác Văn Hóa Cội Nguồn của chúng ta.
Làm cho dân tộc chúng ta mờ mịt yếu đi, tan rả đoàn kết. Đưa đất nước ta đến
con đường nô lệ.
Vậy
mà có người cũng nghe theo. Tệ hại hơn nữa, có người tự cho mình là trí thức.
Nghe theo sự xuyên tạc của ngoại ban, ếm chặn sự phát triển Văn Hóa Cội Nguồn,
truyền thống Linh Thiêng tốt đẹp của chúng ta. Lắm khi còn tỏ ra bất kính đối
với các bậc Cha - Anh tiền sử đã có công vun đắp lên vẻ đẹp Non Sông Tổ Quốc,
cũng như Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại. Để cho con cháu chúng ta vươn lên. Những
kẻ ấy thật đáng phê bình nếu đúng luật thời những kẻ ấy nghiêm trị thích đáng.
Đã
là dân tộc Rồng Tiên. Con dân Đại Việt, chúng ta phải tin tưởng những gì ông
cha ta truyền lại. Dù cho đó có nhiều chỗ mâu thuẩn chưa giải thích được. Chúng
ta cũng cần trân trọng gìn giữ. Chúng ta là con cháu Tiên Rồng, thời phải tận
trung, chí hiếu, tôn thờ bảo vệ gìn giữ Cội Nguồn Văn Hóa Tiên Rồng.
Văn
Hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Tiên Rồng do Quốc Tổ Hùng Vương sáng lập và truyền lại
cho chúng ta, sự ra đời của Nền Quốc Đạo làm chóa loại dân tộc Văn Lang. Có thể
nói ở vào thời kỳ ấy, khắp cùng thế giới. Chưa có một Nền Quốc Đạo nào ra đời,
ngay cả Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, các Giáo Đạo khác nữa
v.v… Cũng chỉ là ở giai đoạn sau này hàng nghìn năm mà thôi.
Việc
thất truyền của Nền Quốc Đạo là do truyền khẩu quá dài. Lại không có giấy bút
để lưu chép, dẫn đến sai lệch về sau càng lớn. Những gì còn sót lại ở cuối thời
Hùng Vương tức là Hùng Duệ Vương trước công nguyên. Kết thúc 258 chuyển sang
giai đoạn ÂU LẠC, thời Văn Hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Tiên Rồng còn sót lại cũng đi
theo Vua Hùng sau cùng về Trời. Từ đây về sau Vua là trên hết, không còn Hiến
Pháp, Luật Pháp trên hết nữa. Vua muốn làm gì thì làm, cá mè một lứa như các
nước bạn mà thôi. Thôn tính lẩn nhau tranh giành quyền lực, được là Vua thua là
giặc, giặc và Vua cũng cùng chung một loại (Vô
Đạo) độc trị mà thôi, dân chúng lầm than khốn khổ. Nếu không bị ngoại xâm
thống trị, thời cũng bị Chế Độ Độc Tôn, Độc Trị đè bẹp mà thôi, không bao giờ
có tự do, công bằng xã hội.
Nếu
nói toàn dân kháng chiến bảo vệ đất nước, bảo vệ Tổ Quốc. Đất nước là của
chung, Tổ Quốc là của chung, thời phải sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, dựng
nước giữ nước mà thôi. Không ai là tối cao, chỉ có Hiến Pháp, Luật Pháp là tối
cao. Dân, Vua, Quan bình đẳng, có tội đều bị xử như nhau. (Tối cao của nước Văn Lang không phải là Vua Hùng mà chính là Hiến Pháp,
Luật Pháp của Nền Quốc Đạo). Cái Đạo cao quí của Vua, Quan, Dân thờ.
Văn
Hóa Cội Nguồn Hiến Pháp Quốc Đạo Văn Lang, ở đoạn kinh thờ phụng nói. Cha Trời,
Địa Mẫu sinh ra Nhân Loại Bình Đẳng. Phật, Tiên, Thánh, Thần, Chúa, phàm nhân,
Bình Đẳng, tất cả đều là anh em một nhà vũ trụ. Chỉ thờ Tổ Tiên Khai Hóa hiện
thân là Trời (Cha Trời Mẹ Trời) sau
đó là thờ Ông Bà, kế nữa là thờ Cha Mẹ, người sanh ra mình. Còn xã hội là thờ
Hiến Pháp, Luật Pháp, Vua, Quan, Dân chúng bình đẳng. Nói tốm lại việc thất
truyền Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo dân tộc là do truyền khẩu quá dài, lại
không có giấy bút lưu chép, khi có giấy bút lưu chép, thời chỉ lưu chép Tinh
Hoa còn sót đọng lại mà thôi.
Các
học giã qua các Triều Đại. Lưu chép lịch sử Văn Hóa Cội Nguồn chỉ dựa trên sự
thờ cúng, truyện kể, thơ ca, hò vè, các ngài nào hiểu, đó chỉ là cái vỏ của Văn
Hóa Cội Nguồn mà thôi. Còn Tinh Hoa lớp ruột của Văn Hóa Cội Nguồn thời các
ngài không tìm thấy được, vì các ngài là người phàm tục, không có Nhãn Huệ để
thấy biết Quá Khứ, Hiện Tại vị lai. Chỉ có những bật Đại Giác Ngộ dùng Huệ
Nhãn, Pháp Nhãn thấy rõ quá khứ vị lai, tôm gốp tinh hoa vũ trụ làm lợi ích cho
toàn nhân loại con người.
Còn
người thường tục, dù đó là Bác Học, Tiến Sĩ, nếu không tu luyện đến cảnh giới
cao, làm chủ tâm mình, tánh mình an trụ vào Tạo Hóa, thời khó mà hiểu rõ Thật
Tướng, Thật Tánh vũ trụ, khó mà thấu suốt Quá Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
*********
Hết
phần 5 chương 2, mời xem tiếp phần 1 chương 3 Long Hoa Mật Tạng. Bộ kinh vô
cùng quý hiếm báu vật của trần gian nói chung, nói riêng dân tộc Việt Nam. Có
duyên gặp được bộ kinh nầy thời coi như người đó đã tu luyện vô lượng ức kiếp.
May mắn thay cho con cháu Việt Nam
làm chủ báu vật kho tàng tri kiến vô giá nầy. Chỉ cần đọc tụng một câu cũng
chuyển họa thành phúc, huống chi là truyền bá bộ kinh nầy cho nhân loại anh em
thời làm vua các tần trời là chuyện hiển nhiên không có chi là bàn cải. Nơi nào
có bộ kinh nầy, thời nơi đó có Cha Trời ngự trị, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa
gia hộ. Hồn thiêng dân tộc che chở, khí thiêng sông núi phù trì, luôn được bình
yên vạn sự.
Thấy Thiên Bút như thấy Trời Cha
Thành tâm cung kính
Nạn khỏi tai qua
Cầu chi đặng nấy, phước muôn vạn đời.
CHƯƠNG 3
PHẦN 1
QUỐC ĐẠO TIÊN RỒNG
Quốc
Đạo là Đạo khai dựng lập lên đất nước Văn Lang. Bất chiến tự nhiên thành. Văn
Hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Tiên Rồng là Đại Đạo cao quí. Chí Tôn vô thượng, Đại Đạo
Nguồn Cội nhân loại con người, Chủ Nghĩa Hòa Hợp Dân Tộc, Chủ Nghĩa Đại Đồng.
Hiến
Pháp Văn Lang Nền Quốc Đạo Tiên Rồng ở đoạn thờ tự nói. Chỉ có bốn cấp trên
đầu, trên cổ thiên hạ chúng ta, hay còn gọi là bốn ngôi.
1:
Đó là Tổ Tiên Khai Hóa. Đấng tạo lập lên vũ trụ.
2:
Là Hai Đấng Cửu Huyền Cha Trời Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ.
3:
Ông Bà Tổ chúng ta cũng như ông bà nhiều đời nhiều kiếp, ông bà hiện tại.
4:
Là Cha Mẹ sinh ra chúng ta song thân Phụ Mẫu.
Còn
ta là ngôi số 5 ngôi con cháu.
Chúng
ta lạy bốn lạy là lạy bốn ngôi trên. Còn bái bốn bái.
1:
Là ơn Đồng Bào.
2:
Là ơn Tổ Quốc.
3:
Là ơn Chúa ơn Phật, Thánh, Tiên, Thần.
4:
Là ơn Thầy, Cô dạy dỗ.
Nói
chung 8 ngôi này là 8 ngôi Chí Thánh Chí Linh, công ơn như non như biển.
Trong
8 ngôi ấy có 2 ngôi không thể nghỉ bàn. Đó là Ngôi Tổ Tiên Khai Hóa. Ngôi Cửu
Huyền Cha Trời Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ. Hai ngôi này tuy 2 là 1, tuy 1
mà 2, có thể nói Tổ Tiên Khai Hóa khai tạo lập nên vũ trụ rồi hiện thân ra Đức
Cha Trời, Đức Địa Mẫu để mà cai quản điều hành vũ trụ, sanh con đẻ cháu. Chánh
Thân, Chánh Mẫu của nhân loại con người. Hiến Pháp Văn Lang Kinh Cội Nguồn nói.
Khi nào nhân loại hướng về Cội Nguồn nơi sanh ra Linh Hồn thể xác của họ, thời
Chủ Nghĩa Đại Đồng sẽ ra đời, nhân loại sẽ sống chung trong nền Hiến Pháp vũ
trụ.
Quốc
Tổ Hùng Vương thừa lịnh của Đức Cha Trời khai lập lên nước Văn Lang, đi đôi với
Văn Hóa Cội Nguồn, Hiến Pháp Văn Lang Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc. Là Đức
Chí Tôn thừa hành theo di chí của Tổ Tiên, đặc nền móng Thiên Đạo, Đạo Trời
xuống chốn nhân gian. Đưa nhân loại trở về vũ trụ, hội nhập Cội Nguồn đến với
Đấng Cha Ông, Đấng Chúa tối cao vũ trụ.
Có
thể nói Quốc Tổ Vua Hùng đã để lại cho dân Văn Lang ngày xưa, dân tộc Việt Nam
ngày nay, hai di sản quí hiếm.
1: Đó là Tổ Quốc Non Sông.
2: Là Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo
Tiên Rồng Dân Tộc.
Những
kẻ thiếu hiểu biết, không có lòng trung nghĩa hiếu kính, xem thường Văn Hóa Cội
Nguồn. Nhưng họ biết đâu Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa Chí Tôn vô thượng, linh
thiên thuộc hàng bật nhất trong trời đất.
Sự
bừa bác của những kẻ thiếu hiểu biết, chẳng đem kết quả tốt đẹp nào đến mà phải
nhận lãnh đầy tai họa, không những tai họa cho bản thân mà còn tai họa sang con
cháu. Cái tội chống phá Cội Nguồn, chia rẽ Đồng Bào, phản bội Cha Ông, nòi
giống Tiên Rồng thời khó có thể mà tha thứ được. Loại người như vậy đã trở
thành những kẻ đại gian đại ác, đại bất trung, đại bất hiểu. Chạy theo ảo tưởng
dục vọng cuồn điên, làm hại con cháu, làm hại xã hội. Nếu không từ bỏ, một phen
chết đi liền sa ngay xuống Địa Ngục, khó mà đầu thai trở lại làm người, vì đã
phạm vào tội Đại Nghịch, đã phá Tổ Tiên, Cội Nguồn, Đấng Ông Cha lập lên vũ trụ
và con người.
Quốc
Tổ Hùng Vương là Chí Tôn Thiên Đế, con lớn của Đức Cha Trời đầu thai xuống
trần, dựng nước Văn Lang, mở ra Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng, theo
Thiên ý của Đức Cha Trời, nên Quốc Tổ có quyền năng vô hạng. Những kẻ hủy bán
Quốc Tổ sẽ bị giảm tuổi, lại gặp bao điều xui ruỗi, Thần, Thánh, Phật, Tiên không
độ mạng, con cháu sanh nghịch tử.
Những
người trước đây không hiểu nên đã phạm tội. Nên Long Thần Hộ Pháp, Thần Thánh
còn tha thứ. Đã gặp lời Kinh dạy rồi mà còn vi phạm, dù là người ngoại Quốc
cũng không tránh khỏi đại họa, huống chi là con cháu Tiên Rồng. Chỗ nào cũng
trời, chỗ nào cũng đất, Thiên La Địa Võng tránh đâu cho thoát.
Tổ
Tiên ta thường dạy, dù con cháu có đi đến đâu, nơi đâu, chân trời góc biển cũng
mang triết lý lời dạy Ông Bà Tổ Tiên đến đó để thờ phụng, giữ gìn Văn Hóa Cội
Nguồn đừng để mất. Lời dạy ấy đã thấm nhuần trong tim của người dân Đại Việt,
vì vậy con cháu Đại Việt đi đến đâu, thời đền thờ Cha Trời Lạc Long Quân, đền
thờ Địa Mẫu Âu Cơ, đền thờ Hùng Vương đến đó. Dù là ở nước ngoài cũng thế huống
chi là trong nước, có như vậy mới xứng đáng con Lạc cháu Hồng, Con Rồng Cháu
Tiên.
Cây có Cội Nước có Nguồn
Con Chim có Tổ con người có Tông
Mất đi Nguồn Gốc Tiên Rồng
Như cây mất Gốc, như sông mất Nguồn.
PHẦN HỎI ĐÁP:
Hỏi:
vì sao ta phải yêu mến Văn Hóa Cội Nguồn?
Đáp:
vì Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa Kim chỉ Nam. Là con đường truyền thống để cho
con cháu đi theo, hết thế hệ này đến thế hệ khác, là con đường dẩn ta đến An
Lạc. Không những An Lạc về vật chất mà cả về Linh Hồn, con đường Cực Lạc Quốc,
sống mãi trong Tự do, Độc lập, Hạnh phúc.
Hỏi:
Vì sao ta phải bảo vệ và giữ gìn Cội Nguồn?
Đáp:
Cây có Cội Nước có Nguồn
Con Chim có Tổ, con người có Tông
Mất đi Nguồn gốc Tiên Rồng
Như Cây mất gốc, như sông mất Nguồn.
Hay
là:
Cây có gốc, nở cành xanh ngọn
Người có Nguồn người nở mùa xuân
Uy phong tỏ rạng anh linh
Vững bền Độc Lập, vững bền tự do.
Dân
Tộc nào đánh mất truyền thống Cội Nguồn. Thời dân tộc đó, tan rã sự đoàn kết,
dẩn tới nô lệ. Vì vậy bảo vệ và giữ gìn Cội Nguồn. Là bổn phận, là trách nhiệm
đối với Con Cháu Rồng Tiên. Đó là nét cơ bản của Đạo pháp dân tộc. Thể hiện
lòng Trung, Hiếu đối với Non Sông Tổ Quốc. Đối với Cha Ông.
Hỏi:
Quốc Tổ Hùng Vương để lại cho chúng ta những gì?
Đáp:
Vua Hùng dựng nước dựng non
Dựng Nền Quốc Đạo vàng son Tiên Rồng
Công lao trời bể non sông
Cháu con mãi mãi nhớ ơn công người.
Quốc
Tổ Hùng Vương là Đấng Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống trần. Là vì Quốc Tổ Thiên
Tài có một không hai trong hàng Đế Vương thời đó, từ Đông sang Tây. Quốc Tổ mở
mang bờ cõi nước xích Quỷ thành nước Văn Lang, truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn Nền
Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc. Như vậy Quốc Tổ Hùng Vương đã để lại cho chúng ta
hai di sản quí hiếm. Đó là: Non Sông Tổ
Quốc và Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc. Công ơn ấy muôn đời
không trả nỗi.
Hỏi:
Vì sao Nền Quốc Đạo Tiên Rồng lại thất truyền?
Đáp:
Vì thời xa xưa ấy. Dân Tộc Văn Lang nói riêng, nhân loại thế giới nói chung.
Chưa chế tạo ra được giấy bút, chỉ dùng da Thú thay cho giấy. Lại thêm chữ viết
chưa được hoàn hảo, lấy việc khắc tượng, vẽ hình, họa cảnh lên đất lên đá lên
cây, thay cho chữ viết. Truyền dạy cho thế hệ sau. Sự truyền dạy ấy vừa lạc hậu
vừa không bền vững, vừa khó diển đạt ý nghĩa của Văn Kinh. Nên việc lưu chép
Kinh sử khó thực hiện được. Mọi chuyện chỉ truyền khẩu cho nhau, từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Cứ thế kéo dài mấy nghìn năm. Tam sao thất bổn. Thử hỏi y văn
sao được. Dẫn đến thất truyền là điều hiển nhiên khó tránh khỏi. Dẫn đến mất
bốn gốc Tinh Hoa Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Dân Tộc.
Hỏi:
Vì sao Dân Tộc ta dẫn đến đói nghèo, lạc hậu, chiến tranh truyền miên?
Đáp:
Ánh sáng chân lý Cội Nguồn đã tắt. Bóng đêm trùm xuống con cháu Lạc Hồng, mở
màn cho các thế lực ngoại xâm. Một khi truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn yếu đi.
Thời sức mạnh yêu nước yêu nòi giảm sút. Thậm chí còn quên đi nữa là khác, đoàn
kết dân tộc tan vở. Đó là lúc thuận lợi cho cuộc mưu đồ xâm lược ngoại ban. Xâm
lược bằng học thuyết chính trị, văn hóa độc hại, xâm lược bằng vũ lực. Họ
truyền bá văn hóa độc hại, làm mê hoặc tinh thần của dân tộc ta. Sau đó là thôn
tính non sông Đại Việt, con cháu Tiên Rồng thành con cháu nô lệ. Cụ thể hơn một
nghìn năm dưới ách thống trị của Tàu. Hơn trăm năm dưới sự cai quản của Tây.
Lại hơn năm mươi năm nồi da nấu thịt từng ngày. Non Sông Đại Việt đi vào thê
thảm, đói nghèo, lạc hậu, chán chê, chiến tranh, loạn lạc ê hề chiến tranh.
Hỏi:
Vì sao các thế lực ngoại xâm rất sợ Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng
Dân Tộc?
Đáp:
Vì Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa Linh Thiên. Đầy chính nghĩa ung đúc nuôi dưỡng
tinh thần đoàn kết yêu nước yêu dân tộc. Mạnh như Rồng, đẹp như Tiên. Văn Hóa
của sự Độc Lập, Tự Do, chủ quyền hạnh phúc. Con người đứng vững là nhờ đôi chân
mạnh mẽ. Dân tộc đứng vững là nhờ dân trí yêu nước, yêu văn hóa truyền thống
vững vàng. Nhất là thứ văn hóa đầy Chính Nghĩa. Mạnh như Rồng, đẹp như Tiên ấy,
thời ngoại xâm không sợ sao được.
Hỏi:
Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, Thiên Chúa Giáo có trước hay sau Văn Hóa Cội
Nguồn. Quốc Đạo Tiên Rồng?
Đáp:
Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ ra đời cách đây năm nghìn năm. Còn Phật Giáo,
Lão Giáo, Khổng Giáo ra đời cách đây hơn 2 nghìn 5 trăm năm mà thôi. Bằng một
nữa thời gian Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Dân Tộc ra đời. Còn Thiên Chúa
Giáo thời mới sau này, hai nghìn năm sau Văn Hóa Cội Nguồn ba nghìn năm. Có thể
nói Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa lâu đời. Có trước tất cả các Văn Hóa , Đạo
Giáo Tôn Giáo.
Hỏi:
Vì sao Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ là Đạo của Vua thờ, còn dân không được thờ?
Đáp:
Đó là cách đây hơn mấy nghìn năm thời Hùng Vương. Còn thời này thời dân có
quyền được thờ. Văn Hóa Cội Nguồn là Đại Đạo tối cao vũ trụ. Đạo Luật công bằng
xã hội, cán cân công lý dùng để trị Quốc. Cứu dân độ thế, cái Đạo của Vua thờ.
Thế Thiên hành Đạo, Hành theo Đạo Luật vũ trụ.
Hỏi:
Bừa bác chống phá Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ, có tội không?
Đáp:
Phải nói là Đại Tội. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa thường dạy rằng. Thuận Trời
thời sống hạnh phúc. Chống Trời thời họa đến, chết rồi hồn chẳng được yên thân.
Muôn kiếp luân hồi đọa đày khốn khổ, khó mong trở lại làm người, luân hồi mãi
trong Địa Ngục. Ngạ Quỷ, súc sanh mà thôi.
Hỏi:
Tin theo, làm theo Văn Hóa Cội Nguồn thời được lợi ích gì?
Đáp:
Còn gì vui sướng hơn nghe theo, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời. Nếu kể ra
lợi ích ầy, thời dù kể đến trăm nghìn năm cũng không hết. Đây chỉ là kể sơ qua
lợi ích, tin theo, làm theo. Lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn lời dạy của Đức
Cha Trời, 10 lợi ích cơ bản.
1:
Là Tổ Tiên Khai Hóa, Cha Trời, Địa Mẫu. Phật, Thánh, Tiên, Thần Chúa thường hộ
trì, độ mạng, che chở, phù hộ, họa tiêu phước đến, cầu chi đặng nấy, muốn gì
đặng nấy. Nếu điều ước muốn không trái với Đạo Đức, nếu công càng lớn Đức càng
cao, thời cầu càng linh.
2:
Con cháu hiếu thuận, hiển đạt công danh, ông bà siêu thăng, cha mẹ tăng tuổi
thọ, niềm vui kéo đến, tai nạn giảm đi cải số, chuyển họa thành phúc, chuyển
nghèo thành giàu, dư ăn dư để. Bệnh tật tiêu trừ, bệnh nặng chuyền thành bệnh
nhẹ, bệnh nhẹ chuyển thành hết bệnh. Nhờ lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn. Rời
xa tội lỗi, tạo lập nhiều Công Đức. Nên đã chuyển đổi số mạng. Từ họa chuyển ra
phúc, tuổi về già không lẩn não, Linh Hồn minh mẩn, Siêu sanh về thượng giới.
Sống trong Cực Lạc.
3:
Không sanh vào ba ác Đạo, Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, phước lớn thời sanh về
Trời, phước nhỏ thời sanh trở lại làm người, hưởng phú quí vinh hoa giàu sang,
trí huệ sáng láng, gia đình êm ấm. Muôn phúc nghìn lành. Vô cùng tọa nguyện.
4:
Nếu là dân thường nhờ lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn, thời lên chức Thần, nếu
là Thần thời lên chức danh Phật, Thánh, Tiên, vào ba ngôi chí Bảo, Pháp Tạng,
Luật Tạng, Thiên Tạng, nếu là Phật, Thánh, Tiên, có công trong Văn Hóa Cội
Nguồn Thiên Đạo vũ trụ, thời lên ngôi Phật Tổ, Thánh Tổ, Thiên Tổ, Chí Tôn vô
thượng.
5:
Trí Huệ vô ngại, biện tài vô ngại, chuyển đại pháp Luân, thay Trời hành Đạo làm
theo thiên ý Đạo Trời.
6:
Phước báo vô tận, trang nghiêm thù thắng, uy quyền tột đỉnh, Báo Thân có đủ 32
tướng tốt 80 vẻ đẹp, Pháp Thuật, Thần Thông, Trí Huệ không thể nghỉ bàn vô tận.
7:
Bất sanh - Bất diệt - Bất cấu - Bất tịnh
- Bất tăng - Bất giảm trong sạch. Như hoa sen thường còn vô lượng thọ không còn
cái thọ nào hơn.
8:
Nhất thiết chủng trí, đồng nhất một trí, quá khứ vị lai, chỉ là một trí. Trí vũ
trụ.
9:
Viên mãn trí Huệ, viên mãn Hạnh Nguyện vào ngôi Chánh đẳng Chánh giác, an trụ
niết bàn (Vô Trụ) Tự Nhiên Trụ.
10:
Toàn năng, Toàn giác làm chỗ tựa vững chãi cho toàn pháp giới cháu con.
*********
Hết
phần 1 chương 3 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 2 chương 3.
CHƯƠNG
3
PHẦN
2
ĐI TRƯỚC VỀ SAU
Các
Giáo Đạo ra đời sau Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ. Nhưng lại có dịp truyền
bá rộng rãi. Nhằm lúc con người đang trên đà phát triển văn minh về vật chất,
tuy giấy bút còn thô sơ, có cơ hội lưu chép Kinh Luân. Cũng như tạc tượng họa
hình mỗi ngày một thêm phong phú, dễ in sâu vào lòng người. Lại thêm Kinh luân
văn tự lưu truyền không thay đổi, nên không có sự thất truyền, vì vậy các Tôn
Giáo, Đạo Giáo đứng vững, vì bổn gốc không mất và lần lần lan truyền khắp cùng
thế giới.
Còn
Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ ra đời trước các Giáo Đạo Tôn Giáo hàng
nghìn, nghìn năm. Gặp lúc con người còn lạc hậu về vật chất, chưa chế tạo ra
giấy bút, thời lấy đâu ra giấy bút để lưu chép Kinh Luân. Chưa nói đến chữ viết
còn lạc hậu thô sơ ở dạng tượng gạch, tượng hình. Nên việc lưu truyền Chánh
Giáo rất hạn hẹp, rồi dần dần đi vào bế tắc. Dẩn đến thất truyền, không còn
phát huy rộng lớn được nữa, đi vào bế tắc, vì vậy Văn Hóa Cội Nguồn tưởng như
là mất hẳn, bất ngờ đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái rực thắm mùa xuân cả đất
trời. Có thể nói Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng ra đời trước nhưng lại nở
hoa sau, đi trước về sau bao chót. Đây là điều bí mật Thiên Cơ Đức Cha Trời Lạc
Long Quân sắp xếp như vậy, nở hoa Văn Hóa hồi kết thúc của tiểu kiếp thứ 9, mở
màn cho tiểu kiếp thứ 10.
Thời
kỳ Văn Hóa Cội Nguồn ra đời. Đạo Nhơn Luân Hiếu Nghĩa ở đỉnh cao làm sáng rực
Nền Quốc Đạo Tiên Rồng, ít có người dối trá, bất nhân, bất nghĩa, bất trung,
bất hiếu, ngược lại họ còn Trung Hiếu Nhân Nghĩa vô cùng. Có thể nói người xưa
thực hiện Đạo làm người rất đạt. Biết liêm sỉ, biết hổ thẹn khi làm sai, công
minh chính trực, kính trên nhường dưới, tôn ti trật tự, khiêm tốn dung hòa, anh
em họ tộc, chồng vợ cha con có khuôn phép. Vua, Tôi, Quan, Tướng giữ lễ hàng
đầu, xã hội nghiêm minh, tất cả đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, thật thà
chất phát lòng ngay thẳng, tham lam tật đố ít sanh, yêu nước yêu non lòng
nhường nhịn, tướng vương, tôi tớ rất dung hòa, xã hội muôn phần đều tốt đẹp,
thái bình Độc Lập khắp Âu Ca, dân giàu nước mạnh luôn phồn thịnh, văn minh Quốc
Đạo thật sâu xa, Độc Lập kéo dài xuân cùng khắp, mấy nghìn năm hạnh phúc mấy ai
qua. Nước Văn Lang kéo dài Độc Lập mấy nghìn năm, phần lớn là do Văn Hóa Cội
Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng ung đúc sự bền vững của thái bình thịnh trị, không
có một quốc gia nào trên thế giới thời đó sánh kịp.
Lấy
trường dạy Đạo thay thế cho nhà tù, cải tạo gội rữa tâm linh bằng Văn Hóa Cam
Lồ Cội Nguồn, ít dùng đến bạo lực đàn áp khổ sai, hình ảnh Đức Quốc Tổ lúc nào
cũng coi như là Đấng Cứu Thế. Mà thật đúng vậy, Đức Quốc Tổ là con lớn của Đức
Cha Trời Lạc Long Quân, Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống trần, đấng cứu thế, nên
Thiên Thần, Địa Thần luôn luôn theo phò trợ Đức Quốc Tổ. Văn Hóa Cội Nguồn Nền
Quốc Đạo Tiên Rồng. Là nền Quốc Đạo cao quí của toàn dân. Cái Đạo Quốc Vương
tôn thờ. Vì vậy sự truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn đều nằm trong dòng dõi Vương
tộc. Trải suốt một dọc đường 2622 năm Vương trước truyền Vương sau tôn thờ gìn
giữ.
Y
Giáo chơn truyền. Quốc Vương trước truyền cho Quốc Vương kế vị sau mà thôi.
Cũng vì vậy tiếp nhận Văn Hóa Cội Nguồn. Cũng có nghĩa là tiếp nhận Thiên Ấn
chiếu chỉ của Trời. Thay Trời hành Đạo.
Đến
cuối giai đoạn Hùng Vương thời Hùng Vương thứ 41 thượng hạ Hùng Vương. Hùng
Vương đời thứ 18 hạ Hùng Vương. Hùng Duệ Vương là Hùng Vương sau cùng. Mang
theo Y Giáo Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại về trời. Không truyền xuống AN DƯƠNG
VƯƠNG. Có thể nói Thiên Ấn Cội Nguồn đến thời Hùng Vương cuối cùng là chấm dứt.
AN
DƯƠNG VƯƠNG lên ngôi Quốc Vương làm chủ nước Văn Lang. Vì không có Y Giáo Thiên
Ấn. ẤN truyền. Nên An Dương Vương đổi sang niên hiệu ÂU LẠC. Nước Văn Lang
chuyển sang giai đoạn nước ÂU LẠC. Niên hiệu Hùng Vương chuyển sang niên hiệu
AN DƯƠNG VƯƠNG. Quốc Tổ Hùng Vương để lại hai Di Sản. Nhưng đến thời ÂU LẠC An
Dương thời chỉ còn lại một Di Sản mà thôi. Đó là Tổ Quốc Non Sông. Còn Thiên
Ấn, Văn Hóa Y Giáo Cội Nguồn không truyền xuống nữa. Từ đây trở về sau là thời
loạn. Mạnh là Vua thua là giặc. Cảnh tượng nồi da nấu thịt luôn luôn xảy ra.
Chờ cho Thiên Bút ra đời. Thời Thiên Ấn Văn Hóa Cội Nguồn mới trở lại non sông và
NGÀY ĐÓ ĐÃ ĐẾN. Ngày mà Thiến Ấn Thiên Bút ra đời.
*********
Hết
phần 2 chương 3 mời xem tiếp phần 3 chương 3 Long Hoa Mật Tạng. Để hiểu rõ
nguồn gốc sâu xa các dân tộc ở tiểu kiếp thứ 9 nói chung, cũng như dân tộc Văn
Lang, nay là dân tộc Việt Nam nói riêng. Thời chúng ta mới hiểu thế nào những
lời tiên tri về dân tộc Việt Nam ,
cũng như đất nước việt Nam .
Có thể nói những gì qua sấm truyền, cũng như cơ bút ứng linh truyền ra tất cả
đều đúng sự thật. Nhưng chỉ có các bậc đại giác ngộ mới thấu rõ cơ bút ứng linh
nầy. Còn những suy luận tần thường thời không thể nào trúng được. Hầu hết là
đón sai luận sai không trúng những gì cơ bút đã truyền dạy. Và chỉ có Thiên Ấn,
Thiên Bút xuất hiện mới làm sáng tỏ những lời cơ bút tiên tri báo trước. Nói về
đất nước Việt Nam .
Con người Việt Nam , Văn Hóa
Việt Nam .
Tỏ rạng khắp năm châu bốn biển.
Long Hoa Mật Tạng quá huyền vi
Tu nhanh kẻo trể mới kịp kỳ
Vận hội Tiên Rồng kìa tỏ rạng
Đại Đồng Đại Đạo một đường đi
Muốn hiểu Việt Nam đặng thể nào
Long Hoa Mật Tạng đọc xem vào
Huyền Cơ ẩn hiện trong kinh giáo
Quốc Tổ anh linh sáng làm sao.
CHƯƠNG
3
PHẦN
3
NGUỒN GỐC CÁC DÂN TỘC NĂM MÀU DA ANH EM
CÒN SỐNG SÓT Ở TIỂU KIẾP THỨ 9
Gần
cuối tiểu kiếp thứ 8. Tứ Đại Đất - Nước - Gió - Lửa. Thái chuyển hoành hành dữ
dội. Nên con người khó mà sống sót. Còn lại không còn bao nhiêu. Mở màn người
nguyên thủy ra đời. Sang qua tiểu kiếp thứ 9. Càng gần cuối tiểu kiếp thứ 8.
Thời cơn bão bình thường cũng lên tới 200 cây số giờ cuối tiểu kiếp lên tới 300
cây số giờ. Còn cơn bão mạnh lên tới 500 - 600 cây số giờ. Nước dân ngập hầu
hết các lục địa Đồng Bằng. Cuối tiểu kiếp các dãy núi thấp cũng ngập luôn, nhấn
chìm hết thảy nền văn minh vật chất cuối tiểu kiếp thứ 8. Nhiệt độ trung bình
trên 60 độ C, có lúc tăng lên 100 độ C, nhất là mùa nắng nóng, ngược lại đến
mùa băng giá, có lúc âm xuống 100 độ. Động đất liên miên xảy ra các Châu lục
quả đất co dãn rất mạnh và cuối cùng là thay đổi lục địa, năm châu bốn biển
thay đổi địa hình, nhân loại đi vào nguy.
Gần
cuối tiểu kiếp thứ 8 mực nước biển dâng cao, nhấn chìm vô số hầu hết các nước
trên toàn thế giới, nhân loại phải di cư lần đến những vùng đất cao, bỏ lại sau
lưng là bao nhiêu thành thị thôn quê. Đời sống khoa học vật chất hiện đại vì
tất cả giờ đây đã ngập chìm trong biển nước. Nền văn minh vật chất kéo dài hơn
mười nghìn năm đã kết thúc, hủy hoàn toàn. Nhân loại còn sống sót ở các dãy núi
cao khắp mặt địa cầu Đầu tiểu kiếp thứ 9 trở thành người thượng Cổ ở hang ở
động ở lỗ, sống chung bày đàn. Trải qua hàng triệu năm, trở thành dân tộc Hồng
Hoang Bàng Cổ sơ khai và cho đến cách đây hơn một triệu năm mực nước biển đã
cạn lần. Nhân loại đang sanh sống ở các dãy núi cao của nhiều Châu Lục. Trong
các dãy núi cao của nhiều Châu Lục chỉ có những dãy núi cao ở khắp Tây Tạng và
những dãy núi xa gần giáp ranh với Tây Tạng. Nơi đây dân tộc Hồng Hoang sống
đông đúc hơn cả, đủ 5 màu da sắc tộc anh em, còn những dãy núi khác rãi rác
khắp địa cầu thời rất ít. Dân Tộc anh em không nhiều như ở đây.
Ở
tiểu kiếp thứ 9 theo thời gian mực nước biển cạn lần, cạn lần. Núi, đồi, đất
đai cũng dần dần lộ ra, hàng năm càng rộng lớn, những trận lụt kinh khiếp theo
dòng chảy ra sông ngòi kinh rạch. Nước từ các dãy núi cao Tây Tạng giáp ranh
với Tây Tạng chảy xuống các vùng đồi thấp, rồi chảy xuống Đồng Bằng, chảy lần
ra biển cả, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương, Bắc Băng Dương. Mực
nước biển rút đến đâu, để lại lớp phù sa màu mở đến đó, cọng thêm sông ngòi
kinh rạch, mang theo lớp phù sa, là do những trận lụt lớn làm lở núi sụp đồi cuốn
theo động vật thực vật, lớp bùn phù sa bồi đắp lấp lần ra biển, lấp lần ao hồ,
thành những đồng bằng màu mở bạc ngàn, làm cho cây cối sanh sôi nẩy nở, đâm
chồi nảy lộc. Rừng xanh tăm tắp bạc ngàn, hoa thơm trái ngọt thi nhau mà chen
mà chúc. Chim muôn vạn thú mặc sức mà xơi, nhân loại anh em thi nhau mà sinh mà
sản. Bốn phương tám hướng, Đông Tây Nam Bắc khắp vùng xa gần dưới chân Tây Tạng
cổ xưa. Con đàng cháu đống năm màu da anh em từ bốn phương tám hướng ở dãy núi
cao Tây Tạng, xuống lần đồi thấp, xuống lần đồng bằng. Theo con suối, con khe
từ thượng nguồn của các dòng suối rồi đến thượng nguồn của các dòng sông, xuống
lần đồi thấp, xuống lần đồng bằng. Dân Tộc Hồng Hoang đi lần về hướng Tây, Tây
Nam, Tây Bắc, hình thành lên các dân tộc gần, Tây Á, Tây Bắc Á, Tây Nam Á. Còn
các dân tộc Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Úc, có thể nói là tiểu kiếp thứ 8,
nhất là gần cuối tiểu kiếp thứ 8 nhân loại anh em cũng đã từng ở khắp những
Châu này, cả tỷ tỷ dân, nhưng đã bị xóa sổ ở giai đoạn cuối tiểu kiếp thứ 8. Những
người sống sót ở cuối tiểu kiếp thứ 8, trở thành dân tộc Hồng Hoang ở đầu tiểu
kiếp thứ 9 và tuần hoàn lặp lại họ đi lần về bốn biển năm Châu nơi mà Tổ Tiên
ông bà ở tiểu kiếp thứ 8 của họ đã ở. Và từ đây hình thành lên nhiều thế lực
chia nhau làm chủ núi rừng, đồng bằng, sông hồ, kinh rạch. Nhân loại ở tiểu
kiếp thứ 9 càng ngày càng đông, thời sự di cư từ nơi này sang nơi khác lan tỏa
càng nhanh, rồi trở thành những cuộc xung đột của nhiều thế lực xảy ra tàn
khốc, tiêu diệt lẫn nhau.
*********
Hết
phần 3 chương 3 mời xem tiếp phần 4 chương 3 Long Hoa Mật Tạng. Bộ kinh tối cao
giải rõ bao điều bí mật vũ trụ. Nhất là sự bí mật về địa long hình chữ S
địa cuộc của nước Việt Nam .
Tiền thân Quốc Tổ Hùng Vương, lịch sử Tiên Rồng cũng như nhân loại về Châu Á.
CHƯƠNG
3
PHẦN
4
NGŨ LUÂN DA VÀNG.
Như
chúng ta đã biết, Địa Mẫu Âu Cơ sanh ra nhân loại con người, ông bà Tổ Tiên
chúng ta. Cách đây 75 triệu 600 trăm nghìn năm, giữa tiểu kiếp thứ 5. Trăm
người con, 50 Nam, 50 Nữ. Gồm 5 màu da ngũ hành, Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Kim Da
Trắng, Mộc Da Chàm, Thủy Da Đen, Hỏa Da Đỏ, Thổ Da Vàng, ngũ hành. (Ngũ Hành, sanh ra Ngũ Luân).
Nói
tốm lại Địa Mẫu Âu Cơ sanh ra nhân loại Ngũ Hành. Còn nhân loại Ngũ Hành, sanh
ra con cháu Ngũ Luân, ứng hiệp theo Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Đây
nói về dân tộc Hồng Hoang bàn cổ sơ khai, kéo dài hàng triệu triệu năm. Dân tộc
Da Vàng ở tiểu kiếp thứ 9, Hầu hết là con cháu Hồng Đế, luân chuyển sanh ra 5
màu da Vàng Trắng, Vàng Chàm, Vàng Đen, Vàng Đỏ, còn Vàng Hồng đó là chính da.
Vì ứng dụng theo Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ nên anh em da Vàng có hai lối sống khác
nhau, kẻ thích sống ở trên cao gọi là Thượng, người thích sống ở đồng bằng ao
hồ sông rạch gọi là Kinh. Kinh, Thượng qua lại chung sống với nhau vì anh em
một nhà. Con cháu Hồng Đế trải qua hàng triệu triệu năm. Từ các thượng nguồn
con suối, thượng nguồn con sông, xuống lần dưới thấp theo hai hướng, theo các
dòng sông và theo các sườn đồi. Phần lớn anh em da Vàng, Kinh, Thượng đi theo
hướng mặt trời mọc, rồi tẻ ra Nam, Bắc. Và cho tới cách đây hàng chục nghìn năm
anh em Da Vàng theo các con sông xuống Đồng Bằng, trong đó phải kể ba nguồn
sông lớn là, Sông Mê Công, Sông Trường Giang, Sông Hoàng Hà. Anh em Da Vàng
xuống đồng bằng rồi tiến lần về biển, phần lớn là tiến lần về Thái Bình Dương,
phần lớn tiến về hướng Đông Đông Nam ra biển Thái Bình Dương, gần giáp ranh với
ẤN ĐỘ DƯƠNG. Hình thành lên hai dân tộc anh em, Đông Nam Á và Bắc Đông Á, lấy
Bắc sông Trường Giang làm chuẩn Bắc, Nam. Và cho đến cách đây 7 nghìn năm, lúc
bấy giờ nền văn minh Đông Nam Á trên đà phát triển. Dân Tộc Kinh cũng như Dân
Tộc Thượng anh em, sống dọc theo thượng Nguồn sông Mê Công, thượng Nguồn sông
Trường Giang. Đột phá tiến lên chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn văn minh
Ngũ Cốc, trong đó có nền văn minh lúa nước là độc đáo.
Vì
sao lại có chuyện như thế? Vì Đông Nam Á khí hậu ôn hòa, bốn mùa tám tiết,
nhiệt độ trung bình lên xuống không cao, không thấp. Nên Thực Vật nói nôm na là
cây, cỏ, củ rất phong phú, những giống quí hiếm sanh sôi cùng khắp, nhất là về
Ngũ Cốc và các giống cỏ, lúa đuôi phụng, đuôi công. Nhưng phát hiện ra Ngũ Cốc
cũng như các giống cỏ lúa, liên quan mật thiết đối với con người không phải dễ,
tuy biết rằng chúng ở ngay trước mặt chúng ta. Để khám phá ra chúng, xử dụng
chúng, đưa đời sống con người lên cao. Đương nhiên phải có nhân tài xuất chúng
ra đời, tốm thâu Ngũ Cốc hoang dại, cỏ lúa hoang dại. Lai tạo chúng, nhân giống
chúng thành thuần chủng, nâng cao đời sống con người. Đó là ai chúng ta tìm
hiểu những đoạn Kinh ở sau.
Còn
Đông Bắc Á nhiệt độ lên cao xuống thấp quá lớn. Mùa nóng thời nóng khô hạn. Mùa
mưa thời bão tuyết phủ xuống ngập tràng, tương sanh thời nhỏ, tương khắc thời
quá lớn không phù hợp cho thực vật nẫy sinh phong phú. Nhất là những giống quí
hiếm ít sanh sôi nẫy nở như Ngũ Cốc hoang dại, cũng như cỏ lúa đuôi Công, đuôi
Phụng, nên nhà Bác Học vũ trụ không đầu thai xuống Đông Bắc Á mà chỉ đầu thai
xuống Đông Nam Á cách đây khoảng 7 nghìn năm.
Nhà
Bác Học nông nghiệp Thiên Tài vũ trụ đó là ai? Chính là Đức VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG
ra đời, mở màng cho nền văn minh Ngũ Cốc. Trong đó nền văn minh Lúa nước là độc
đáo hơn cả. VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG tìm tòa Ngũ Cốc hoang dại, năng xuất thấp, đem về
lai tạo nhân giống chúng thành giống thuần chủng năng xuất cao. Đưa đời sống
nhân loại nhảy vọt lên một bước cao, đánh dấu sự hưng thịnh của Đông Nam Á.
Kế
đến là các nhà Bác Học vũ trụ xuống trần ra đời, trong niên đại Viêm Đế Thần
Nông, như nền văn minh hội họa, hình tượng, gạch tượng, động tượng và biểu
tượng. (Xem Kinh Văn Lang Chiến Sự sẽ rõ).
Thay
cho lời nói, mở ra trang sử mới trong giao tiếp, văn minh tinh thần, vật chất
lần lần xuất hiện. Sau thời đại Viêm Đế Thần Nông là thời đại KINH DƯƠNG VƯƠNG.
Sau thời đại Kinh Dương Vương là thời đại HÙNG VƯƠNG. Sau thời đại Hùng Vương
là thời đại ÂU LẠC.
*********
Hết
phần 4 chương 3 mời xem tiếp phần 5 chương 3 Long Hoa Mật Tạng, bộ kinh nói rõ
về Cội Nguồn của dân tộc Văn Lang nay là dân tộc Việt Nam. Kéo dài hàng triệu
triệu năm không phải chỉ có năm nghìn năm Văn Hiến, mà hàng triệu năm Văn Hiến.
Năm nghìn năm Văn Hiến là nói từ thời Quốc Tổ Vua Hùng khai dựng nước Văn Lang
đến bây giờ. Một dân tộc có truyền thống lâu đời nhất thế giới như vậy. Mới có
cơ sở làm tỏ rạng năm màu da anh em khắp cùng trái đất.
CHƯƠNG
3
PHẦN
5
PHẦN TỐM LƯỢC.
1:
Lịch sử: Quốc Tổ Hùng Vương, khai dựng nền Quốc Đạo Văn Hóa Cội Nguồn dựng lên
nước Văn Lang. Quá trình tiến hóa của xã hội nay là nước Việt Nam.
2:
Đức Quốc Tổ Hùng Vương chính là Đức Giáo Tổ, Chí Tôn Thiên Đế con cả của Đức
Cha Trời Lạc Long Quân, đầu thai xuống trần làm con Kinh Dương Vương.
3:
Đức Quốc Tổ Hùng Vương chứng quả vô thượng, Chánh Đẳng Chánh Giác, thuyết ra
Văn Hóa Cội Nguồn, hàng phục trăm bộ lạc, lập lên nước Văn Lang rộng lớn.
4:
Do chính sách trị dân bằng Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Chính Nghĩa, đất nước
Văn Lang Độc Lập kéo dài, thời dựng nước 79 năm thời giữ nước 2622 năm, cọng
chung là 2701 năm.
5:
Vì do truyền khẩu quá lâu dài hàng nghìn năm, Văn Hóa Cội Nguồn càng về sau
càng mất gốc, mất dần Tinh Hoa ý chính, trở thành truyền thuyết không đầu,
không đuôi, không thứ lớp, thiếu thực tế.
6:
Cũng vì mất gốc Văn Hóa Cội Nguồn, Con Cháu Tiên Rồng rơi vào hố thẳm, bóng đêm
trùm xuống, chiến tranh loạn lạc, nồi da nấu thịt, nô lệ truyền miên.
7:
Sống theo kế sách bạo lực, thắng là Vua, thua là giặc. Đi ngược lại Văn Hóa Cội
Nguồn, Hiến Pháp Văn Lang.
8:
Hiến Pháp Văn Lang là Hiến Pháp Đại Đồng, Bình Đẳng là cán cân công lý xã hội,
là Chí Tôn vô thượng. Bảo vệ Quyền Tự Do, Quyền Độc Lập. Quyền Tự Chủ, Quyền Bình
Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người dân, của mỗi dân tộc, không một ai
có quyền xâm phạm.
9:
Là tôn trọng lẩn nhau, sống đúng Hiến Pháp và làm đúng Luật Pháp, hai bên cùng
có lợi, cả hai mặt, tinh thần lẩn vật chất.
10:
Ra sức bảo vệ Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Ra sức Cống Hiến sức lực
tài năng, trí huệ, của cải vật chất. Xây dựng, gìn giữ mỗi ngày một lớn mạnh,
gánh vác mọi khó khăn, làm cho nền Quốc Đạo ngày một sáng tỏ phát Đại Dương
Quang, đưa con cháu Tiên Rồng nói riêng, nhân loại thế giới nói chung đến cảnh
Cực Lạc Hạnh Phúc.
*********
Hết
phần 5 chương 3 mời xem tiếp phần 1 chương 4 Long Hoa Mật Tạng, bộ kinh nói rõ
về Cội Nguồn của dân tộc Văn Lang nay là dân tộc Việt Nam. Long Hoa Mật Tạng là
bộ kinh Quốc Bảo làm sống dậy khí thiêng sông núi, sống dậy Hồn Thiêng Dân Tộc.
Đưa dân tộc Việt Nam
tỏa sáng khắp năm châu bốn biển. Gươm thiên trấn quốc độc lập tự do thái bình
an lạc muôn năm. Mùa xuân mãi mãi nở trong lòng người, xuân giàu sang, xuân
hạnh phúc trên khắp đất nước quê hương.
CHƯƠNG 4
PHẦN 1
NGUỒN GỐC TIỀN THÂN QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG
Đức
Quốc Tổ Hùng Vương chính là Đức Giáo Tổ, Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống trần,
là một trong trăm người con của Địa Mẫu ÂU CƠ và LẠC LONG QUÂN. 100 người con
của Đức Cha Trời LẠC LONG QUÂN và Địa Mẫu ÂU CƠ, sanh ra tại dãy núi Long Hoa,
chốn Hồng Trần, cách đây 75 triệu 600 nghìn năm, giữa tiểu kiếp thứ 5. Một trăm
người con của Đức Cha Trời LẠC LONG QUÂN và Địa Mẫu ÂU CƠ hiện đang làm Phật
Tổ, Thánh Tổ, Tiên Chúa, Mẫu Hoàng, Phật Mẫu, Tiên Mẫu, Thánh Mẫu cai quản khắp
tần trời, Tam Thiên Đại Thiên vũ trụ. Đức Giáo Tổ Chí Tôn là anh cả, theo di
chí Tổ Tiên, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời.
Cho
đến cách đây hơn năm nghìn năm, nơi tần Trời thứ 11 trung Thiên Giới, nơi tần
Trời Thiên Vân, cõi Long Vân, Đức Giáo Tổ Chí Tôn ra khỏi Thiên Cung nhìn về
chốn trần gian, trong lòng bổng nhiên hồi hộp, một chuyện lạ chưa từng có,
không hiểu chuyện gì sắp xảy ra. Thời thấy vũ trụ bổng nhiên tối đen như mực,
cuồng phong nỗi dậy ù ù, tiếng gào thét kêu la thật thảm thiết. Đức Chí Tôn suy
nghỉ, đây là cuồng phong chốn nhân gian, tiếng gào thét kêu la từ Địa Ngục sao
lại bay lên tới tận trung Thiên nơi này hay là Đức Cha Trời có điều chi dạy
bảo, đang suy nghỉ, thời thấy Chư Thiên nhiều vô số vô biên lâm phàm, bị vô
minh vây phủ, không trở về Trời được nữa, không biết bao nhiêu là Chư Thiên rơi
luôn xuống Địa Ngục âm phủ thống khổ vô cùng.
Đức
Chí Tôn thở dài, bổng chốn hư không Ba Đạo hào quang, kéo theo hàng loạt tiếng
sấm lớn, tức thời màn đêm từ từ biến mất. Vũ trụ giờ đây đã trở lại yên bình,
hiện ra vô số hoa sen báu, sau đó thời biến mất.
Biết
Đức Cha Trời có điều muốn dạy, Đức Chí Tôn liền chấp tay vái lạy chốn hư không
khấn rằng:
Thưa Đức Cha Trời, hiện tượng vừa hiện ra
nơi vũ trụ, con đây chẳng rõ, vừa mừng vừa lo. Xin Đức Cha Trời dạy bảo cho con
hiểu.
Lời
khấn vái của Đức Chí Tôn xong, thời nơi chốn hư không phát ra tiếng nói:
Này A DI ĐA con là anh cả trong 100 người
con của ta, nay ta giao cho con việc lớn. Tiểu kiếp thứ 9 sắp kết thúc, chuyển
sang tiểu kiếp thứ 10. Con đem Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ truyền xuống
chốn nhân gian, mở đường đưa nhân loại về Trời. Qua khỏi sông mê đến bờ giác,
mùa gặt hái linh hồn đã đến. Nhân loại tu luyện tiến hóa Linh Hồn đã trải qua
16 triệu 800 nghìn năm, thời kỳ trình độ dân trí tiến hóa lần đến chổ chí cao.
Nhân loại cần có đường để về Trời, tiến lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Còn
những Linh Hồn châm tiến sẽ ở lại chốn nhân gian, tiếp tục đầu thai chuyển qua
tiểu kiếp thứ 10, tiếp tục tu luyện chờ mùa gặt sau. Nơi chốn Hồng Trần dãy núi
Long Hoa, sau một thời gian sụp lở đã thấp xuống, gãy khúc lổm chổm tạo ra núi
non trùng điệp. Nay mực nước biển đã xuống thấp, Địa Long đã lộ ra, dọc theo bờ
biển từ Nam cho tới Bắc. Con hãy đầu thai xuống chốn nhân gian, sanh vào dòng
dõi KINH DƯƠNG VƯƠNG, lớn lên dùng gươm trí huệ, hàng phục ma quân, đại quỷ yêu
quái, hàng phục Thần Giáo lập lên Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ, Đất Nước
Văn Lang. Đóng đô ở Đầu Địa Long hình chữ S.
Con phải đầu thai ba lần con mới làm xong sứ mệnh.
Lần thứ nhất: Con đem Thiên Ấn
Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ xuống nhân gian, lập lên Nền Quốc Đạo Tiên
Rồng. ẤN TRUYỀN xuống con cháu thay nhau gìn giữ. Nhưng không bao lâu thời
Thiên Ấn thất truyền, con cháu Tiên Rồng nhân loại con người phàm trở lại rơi
vào cảnh tối tăm. Cho nên con phải đầu thai lần thứ 2.
Lần thứ hai: Không phải đầu
thai làm con Quốc Vương trở thành Thái Tử Điện Hạ, quyền thế uy nghi mà đầu
thai vào gia đình trung nông bình thường, mồ côi mồ cút, sống trong cảnh chiến
tranh loạn lạc, thiếu ăn thiếu mặc, lang thang khắp chốn, rồi trở thành cư sỉ
ẩn dật, chịu nhiều khảo đảo của ác Ma và ác Quỉ, gian truân khốn khổ trăm bề
suốt 30 năm. Lúc này nhân loại trên đà văn minh vật chất cao, đã chế tạo ra
giấy bút mực tinh xảo, đầy đủ nhân duyên cho con để lại cả ẤN lẫn BÚT. Văn Hóa
Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ lại tiếp tục ra đời, Long Hoa Hội tiếp tục khai mở. Kinh
luân lưu truyền đến tiểu kiếp thứ 15 thời mãn. Thời Long Hoa kéo dài 84 triệu
năm, chuyển sang giai đoạn Liên Hoa Hải Tạng.
Lần thứ ba: Con đầu thai xuống
chốn nhân gian, giữa tiểu kiếp thứ 10, làm Chuyển Luân Thánh Vương, xuất gia tu
hành, làm tổng trì cho Tổ Tiên Khai hóa, thay Cha Trời, Địa Mẫu chuyển Đại Pháp
Luân. Thị hiện Bản Thể, Bất Cấu, Bất Tịnh, Bất Tăng, Bất Giảm, trong sạch, bản
thể Đại Đồng, Tánh Đại Đồng, Tướng Đại Đồng, Trí Đại Đồng, quá khứ vị lai cũng
chỉ là một. Thọ ký cõi nước trang nghiêm cho những người có công lớn trong Văn
Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ.
Đức
Cha Trời truyền dạy xong, nơi không trung bổng nhiên ba Đạo Hào Quang hiện ra
chiếu xuống đầu Đức Chí Tôn, tức thời nhục kế trên đỉnh đầu Đức Chí Tôn liền
trong suốt hóa thành gươm Thiên vũ trụ. Trí Huệ của Đức Cha Trời, thần thông
trí huệ quảng Đại Vô Biên.
Tiếp
nhận xong lời truyền dạy của Đức Cha Trời. Đức Chí Tôn trở về Thiên Cung Đại
Điện, ngồi xếp bằng phóng ba Đạo Hào Quang xuyên suốt không gian vũ trụ. Hiệu
triệu các vị Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Chúa, Lão Lão Tổ, Vương Mẫu, Thánh Mẫu,
Mẫu Hoàng, Phật Mẫu đang cai quảng khắp các tần trời, khắp cùng Tam Thiên, Đại
Thiên vũ trụ.
Nói
về 6 phương trời là: Đông Phương, Tây Phương, Nam Phương, Bắc Phương, Thượng
Phương, Hạ Phương. Mỗi phương lại có thập phương, vô số, vô biên, cõi nước
Chúa, cõi nước Thánh, cõi nước Phật. Nhận được lời hiệu triệu của Đức Chí Tôn,
liền đằng vân giá vũ tức tốc lên đường đến trung ương Thiên Giới để họp. Từ 6
phương thập hướng, từng cụm mây vàng, mây xanh, mây đỏ, mây trắng, trùng trùng
điệp điệp lớp lớp vô tận vô biên, nhắm hướng cõi Long Vân bay đến.
Đức
Chí Tôn thấy Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, đến dự Hội Long Vân đông đủ, các
ngài là các bật Tôn Sư, Giáo Tổ, Phật Tổ, Vương Mẫu, Thánh Mẫu, Mẫu Hoàng, Phật
Mẫu cùng các Thượng Đế, Vương Đế, Vua, Chúa vô lượng cõi Trời, đến hội hộp đông
đủ. Tức thời Kim Đồng Ngọc Nữ bay lên không trung xông hương trổi nhạc, ca hát
ngợi khen tán thán, cúng dường xong đâu vào đấy.
Đức
Chí Tôn mới chấp tay hướng về Đại Hội thưa rằng:
Theo thường lệ cứ 5 năm là Đại Hội Long Vân
một lần, nhưng hôm nay lại sớm hơn 1 năm là vì Đức Cha Trời có lệnh, dạy bảo
chúng ta có điều cần làm. Các anh em khắp vũ trụ có nghe thấy lời dạy của Đức
Cha Trời không?
Đại
Hội thưa rằng:
Bạch Đức Chí Tôn anh em chúng tôi đều nghe
thấy rõ cả, nên đã chuẩn bị tinh thần, chờ Đức Chí Tôn hiệu triệu là lên đường
ngay.
Đức
Chí Tôn nói:
Anh em chúng ta là dòng dõi Tiên Rồng, con
cái nhà Trời, từ khi Cha Trời, Mẹ Trời hiện thân sanh ra chúng ta, rồi trở về
với Tạo Hóa, trở về ngôi vị Khai Hóa Tổ Tiên, đấng lập lên tất cả vũ trụ, vạn
vật và con người. Cha Trời, Mẹ Trời trở về với Tạo Hóa chuyển xây bộ máy huyền
Cơ vũ trụ và đã giao cho anh em, con cháu chúng ta làm chủ vũ trụ.
NHƯ CHÚNG TA ĐÃ BIẾT :
Vũ trụ chúng ta đang cai quảng không phải là
vũ trụ đầu tiên, mà là vũ trụ anh em ta cai quảng đã có vô lượng vô biên vũ trụ
hủy diệt rồi.
Các thế giới đàng anh của chúng ta, sau khi
vũ trụ hủy diệt, thời Linh Hồn các ngài đã nhập vào bản thể Cội Nguồn vũ trụ
rồi. Từ bọt nước, Tiểu Linh Hồn nhập vào bản thể Nước, Đại Linh Hồn vũ trụ, bọt
nước trở lại là nước. Tiểu Linh Hồn trở thành Đại Linh Hồn. Anh em chúng ta
đang làm chủ sống trong vũ trụ mới, kế tiếp vũ trụ đã hủy diệt cách đây hàng tỷ
năm. Chúng ta đang sống trong vũ trụ của chúng ta, chúng ta phải biết gìn giữ
và phải có bổn phận dìu dắt hướng dẫn và giúp đỡ cho thế hệ sau tiến lên giải
thoát đau khổ, giải thoát sanh tử như
các vũ trụ trước. Anh em chúng ta phải theo lời Cha Trời dạy bảo, tùy sự giác
ngộ của mỗi người mà phát Đại Nguyện tận độ lớp lớp thế hệ sau. Trải qua hàng
triệu năm, dưới sự cai quản của anh em chúng ta, Thiên Giới vẫn bình yên trong
Bình Đẳng tự do, An Lạc hạnh phúc.
Chốn nhân gian tuy là cõi phàm tục nhưng lại
là nơi sanh ra anh em chúng ta. Cứ mỗi tiểu kiếp là một chu kỳ lớp học vũ trụ,
từ các loài Cầm Thú, Bò Sát đầu thai làm người, rồi từ người Linh Hồn tiếp tục
tu luyện, tiến hóa lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Rồi tùy theo công hạnh,
lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn. Theo Thiên Luật luân chuyển mà làm Đế làm
Vương, làm Vua, làm Chúa các tần trời, Tam Thiên, Đại Thiên thế giới khắp cùng
vũ trụ.
Nơi chốn nhân gian đang ở giai đoạn gần cuối
tiểu kiếp thứ 9, giai đoạn vô cùng khẩn cấp, vô cùng quan trọng, giai đoạn gặt
hái Linh Hồn, giai đoạn mãn chu kỳ lớp học tiến hóa Linh Hồn của một tiểu kiếp.
Nhưng cũng là giai đoạn đầy nguy hiểm đối
với anh em chúng ta, đầu thai xuống chốn nhân gian. Hầu hết nhân loại ở vào
thời kỳ này nhục thể ô trược nặng nề, khi đầu thai vào bụng Mẹ, thời coi như
Linh Căn tối tăm mù mịt, quên hết kiếp trước của mình. Sanh ra gặp phải thời
thế bất công, chiến tranh loạn lạc, đói nghèo áp bức, tranh giành đua chen,
ganh ghét hận thù, nhất là danh lợi cám dỗ. Bát phong xây chuyển, Ngũ Quỉ khảo
tra, tai nạn dập dồn khổ thôi là khổ. Lục trần bẩn đục, lục căn bệnh tật điên
đảo, lục thức bị vô minh che khuất không rõ giả chân chạy theo bám niếu. Nhân
loại ác tánh phủ khắp xã hội Địa Cầu, bẫy Quỉ, bẫy Ma, bẫy Gian, bẫy Xão giăng
khắp hang cùng ngõ hẻm.
Dòng phiền não tuông nhau chảy xiết
Bả lợi danh cuốn hút liên miên
Có mấy ai đi ngược trở lên
Mà không bị chúng lôi chúng niếu.
Đừng nói chi đến tu hành đắc ngộ. Chỉ cần
làm một việc lành cho vững thời cũng đã thấy khó lắm rồi, nói chi đến mở đường
khai Lộ cho Thiên Hạ đi theo, mà đó lại là con đường về Trời, thời khó biết là
bao nhiêu. Chưa nói đến cảnh bệnh tật, nghèo đói lạc hậu, cảnh anh em, chồng
vợ, cha con, họ hàng, thân tộc, người này khổ lôi kéo người kia, người kia khổ
lôi kéo người nọ, tâm hồn yên tỉnh được đâu, cứ mãi vùi đầu trong vòng xoáy
sanh lão bệnh tử, hận thù triền miên, tham si chẳng dứt, tự mình chẳng cứu được
mình, lặng hụp trong biển khổ, còn cứu được ai nữa. Khó biết bao là khó, nguy
hiểm biết bao khi sanh xuống chốn nhân gian.
Vì Đại Nguyện, vì Cha Trời đã dạy. Anh em
chúng ta lần lượt xuống trần, lấp cửa Địa Ngục mở lối Thiên Đàng. Nếu chậm
trể, thời nhân loại nhân gian tự hủy diệt nhau, rơi vào ác Đạo, Địa Ngục, Ngạ
Quỉ, Súc Sanh, không sao tránh khỏi, uổng công 16 triệu 800 nghìn năm luân hồi
tu luyện.
Gần cuối tiểu kiếp thứ 9, trình độ khoa học
vật chất dân trí đã lên cao, văn minh vật chất đang tiến lên đà cực thịnh, chế
tạo vũ khí giết nhau hàng loạt. Nếu không có Văn Hóa Cội Nguồn, Thiên Đạo vũ
trụ giải mã bí mật vũ trụ, duy trì Chính Nghĩa Đại Đồng. Thời họa diệt vong sẽ
không sao tránh khỏi, thảm khốc vô cùng, Địa Ngục nới rộng, luân hồi chuyển
kiếp súc sanh, đầu thai trở lại Thú Cầm, Ngạ Quỉ súc sanh.
Nói
xong Đức Chí Tôn toàn thân phóng ra vô lượng Hào Quang: Hào Quang Trì Giới, Hào
Quang Thiền Định, Hào Quang Đại Định, Hào Quang Chuyển Luân, Hào Quang Trí Huệ
Bát Nhã, Hào Quang Đại Hùng Đại Lực, Hào Quang Đại Từ Đại Bi, Hào Quang Đạ Hỹ
Đại Xả, Hào Quang Phương Tiện, Hào Quang Đại Phương Tiện, Hào Quang Nhẩn Nhục -
Nhẩn Nhịn - Nhẩn Nại, Hào Quang Đại Tinh Tấn, Hào Quang Đại Nguyện.
Đức
Chí Tôn phóng ra vô lượng Hào Quang: Hào Quang Đại Đồng, Hào Quang Bình Đẳng,
Hào Quang Tự Do, Hào Quang Cực Lạc vô lượng vô biên tạng tánh Công Đức, thù
thắng trang nghiêm.
Hiện
ra tiếng sấm lớn làm chấn động vũ trụ. Tuyên thuyết rằng ta sẽ đầu thai xuống
trần mở màn sớm nhất, tức thời 3 cõi Thiên Đàng, Trần Gian, Địa Ngục bổng sáng
rở lên. Tam Thiên, Đại Thiên thế giới, Chư Thiên mừng rỡ, Chí Tôn sắp lâm phàm
cứu thế, tức thời đàn ca sáo thổi, ca hát nhảy múa tán thán Công Đức. Nhiệm mầu
thay, lời ca tiếng hát, đàn sáo nhảy múa ấy theo Hào Quang của Đức Chí Tôn luân
chuyển cùng khắp vũ trụ, thật là hi hữu chưa từng thấy bao giờ.
Sau
Đức Chí Tôn là các vì Phật Tổ phóng vô lượng Quang, vô lượng Quang thanh tịnh,
hiện ra vô lượng vô biên hoa sen báu, mỗi tòa sen báu đều có Phật Tổ an ngự, từ
vô lượng vô biên tòa sen báu đồng cùng lúc phóng ra vô lượng vô biên Hào Quang:
Hào Quang giải thoát, giải thoát phiền não, giải thoát Tri Kiến, giải thoát Địa
Ngục, giải thoát Ngạ Quỉ, giải thoát súc sanh, giải thoát luân hồi sanh tử. Hào
Quang cứu khổ cứu nạn, Hào Quang tạng tánh Công Đức, Hào Quang Đại Từ Đại Bi,
Đại Hỹ, Đại Xả. Vô lượng vô biên Phật Tổ phóng ra vô lượng Hào Quang, Nhơn Chú,
Phật Chú, Thánh Chú, Thần Chú làm lợi ích cho toàn nhân loại vũ trụ, Tam Thiên
Đại Thiên thế giới. Hào Quang vô ngại trí huệ, Hào Quang nhất thiết chủng trí,
Hào Quang Chánh Đẳng, Chánh Giác, cho đến vô lượng Quang, Đà La Ni Tạng Tánh
Công Đức thanh tịnh vũ trụ, hi hửu chưa từng thấy bao giờ.
Sau
Phật Tổ là các vì Thánh Tổ phóng ra vô lượng Quang. Hiện rõ:
Luật
Tạng vũ trụ. Hiện rõ Thiên Tạng vũ trụ. Hiện rõ Pháp Tạng vũ trụ. Phật, Thánh,
Thần, Tiên, Chúa đều Bình Đẳng. Hào Quang công lý vũ trụ. Hào Quang Nhân Quả vũ
trụ. Hào Quang Phước Báo. Hào Quang Ác Báo. Hào Quang Trọng Tài. Hào Quang Công
Tố. Hào Quang Hành Pháp. Hào Quang Phân Xử. Hào Quang Thế Thiên Hành Đạo. Vô
lượng Thánh Tổ, đồng phóng vô lượng Hào Quang. Hiện rõ khắp Tam Thiên, Đại
Thiên, Thế Giới, Trần Gian, Địa Ngục. Vô lượng vô biên vị Thánh phán xét phân xử
Công Minh theo Thiên Luật, Nhơn Luật vũ trụ. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa,
phàm nhân, Quỉ, Ma hể phạm tội liền bị luân chuyển nhận lảnh quả báo như nhau.
Thiên Luật vũ trụ không thiên vị một ai. Cán cân công lý vũ trụ mãi mãi ứng
dụng theo Luật Đại Đồng Bình Đẳng. Không thay đổi, hi hửu chưa từng thấy bao
giờ.
Sau
Thánh Tổ là các vị Tiên Chúa phóng ra vô lượng Quang. Hào Quang hình thành lực
vũ trụ. Hào Quang hình thành khí vũ trụ. Hào Quang hình thành nước vũ trụ. Hào
Quang hình thành lớp bụi vũ trụ càng lúc càng nhiều. Bổng nổi lên một trận
phong Luân dữ dội, sấm chớp lửa đỏ dậy trời, rồi phân ra làm 9 phong Luân vũ
trụ. Chia làm ba phần, Thượng Luân, Trung Luân, Hạ Luân. Từ một phong Luân tách
ra hàng nghìn hàng vạn phong Luân nhỏ. Rồi từ hàng vạn phong Luân tách ra hàng
triệu phong Luân. Lớp bụi vũ trụ bị phong Luân cuốn hút theo xoáy tròn. Lực ép
khí, khí ép nước, nước ép lại bụi vũ trụ đã tạo ra sau cùng thành vô lượng, vô
biên cõi nước Trời. Nhật, Nguyệt, Tinh Tú, Thiên Hà, Ngân Hà trần gian âm phủ, ba
cõi Thiên Đàng trần gian âm phủ. Vô lượng Chúa Tiên lại phóng ra vô lượng Hào
Quang hiện rõ quá khứ, từ vũ trụ Vô Cực hiện ra vũ trụ Thái Cực, từ Thái Cực vũ
trụ phân ra lưởng nghi rồi hình thành Âm Dương vũ trụ. ÂM DƯƠNG giao hóa chuyển
động theo phong luân, sanh ra ngũ hành, để rõ hơn ÂM DƯƠNG phân ra tứ tượng, tứ
tượng âm dương giao hóa với nhau, chuyển động theo phong Luân hình thành Kim
Mộc Thủy Hỏa Thổ luân chuyển phân hóa sanh ra thập nhị địa chi. Lục Luân Chuyển
Hóa, Ngũ Địa Luân Hoàng, Bát Quái giao tranh, Hào Quẻ sanh ra có lang có lớp,
tương sanh tương khắc, sanh trụ dị diệt, thành trụ loại không. Từ một đầu lông
cho đến vũ trụ có sanh có tử, đều theo Luật tuần hoàn, không rồi lại có, có rồi
lại không. Văn minh khoa học, tinh thông vật chất, nhờ hiểu rõ cơ lý đa năng bộ
máy tiến hóa đa dạng vũ trụ, kết tập kinh nghiệm, hình thành nền văn minh Thiên
Địa, Địa Tiên lập lên thế giới Thiên Đàng Cực Lạc, truyền xuống phàm trần làm
lợi ích cho toàn nhân loại, thật là hi hửu chưa từng thấy bao giờ.
Sau
Tiên Chúa là các Thần Tổ vô lượng vô biên, đồng phóng Quang hộ pháp, vang ra
tiếng sấm lớn chấn động vũ trụ, làm cho tà giáo, ác Ma, ác Quỉ khiếp đảm, Đại
Hội bất thường Long Vân kết thúc. Tam giáo Quy nguyên, Ngũ Chi hợp nhất trở về
chổ cũ, ở nước nào về nước nấy, tùy theo cơ duyên mà hành sự. Thế là Thiên Đạo
Cội Nguồn vũ trụ mở màn xuống trần sớm nhất rồi đến Phật Đạo, Thánh Đạo, Tiên
Đạo, Thần Đạo, lập công với Tổ Tiên, Trời Đất trong Văn Hóa Cội Nguồn.
*********
Hết
phần 1 chương 4 mời xem tiếp phần 2 chương 4 Long Hoa Mật Tạng. Bộ kinh tối cao
không thể nghĩ bàn. Chỉ cần xem qua một phần thành tâm khen ngợi, thời bao kiếp
nạn cũng tai qua nạn khỏi, huống chi là đọc hết một chương, hay trọn bộ kinh
Long Hoa Mật Tạng. Thời những người nầy muôn vạn kiếp sau trở thành những lãnh
tụ thiên tài. Uy danh lừng lẫy. Binh pháp siêu đẳng khó người hơn được. Nếu
phát tâm ấn in truyền bá cho đời, thời những người nầy nhất định trở thành
những vị chuyển luân vương ở khắp cõi trời, giáo hóa vô lượng cõi nước. Được Thiên
Chúng ca ngợi tôn thờ.
Long Hoa Mật Tạng Đại phúc kinh
Thành tâm lễ bái cầu hiển linh
Phước đến hoa tiêu trong nháy mắt
Huống chi đọc tụng Quỉ, Yêu kinh.
CHƯƠNG 4
PHẦN 2
NGUỒN GỐC DÂN TỘC ĐÔNG NAM Á
Tiểu
kiếp thứ 8 kết thúc, nhân loại còn sống sót, chuyển qua tiểu kiếp thứ 9, trở
thành người nguyên thủy, rồi từ người nguyên thủy trải qua hàng triệu năm, trở
thành dân tộc Hồng Hoang, Bàng Cổ sơ khai, từ dân tộc Hồng Hoang, Bàng Cổ sơ
khai, trải qua hàng triệu năm, trở thành dân tộc Hồng Bàng, đứng đầu Hồng Bàng
là Hồng Đế. (Niên Hiệu Hồng Đế ra đời). Rồi
từ Niên Hiệu Hồng Đế, trải qua hàng trăm nghìn năm, thời chuyển sang giai đoạn
Niên Hiệu VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG.
Nói
về giai đoạn Niên Hiệu Hồng Đế trải qua hàng trăm nghìn năm, đến đời Hồng Đế
cuối cùng. Hồng Đế Hậu Nương hạ sanh Quí Tử khôi ngô tuấn tú, thông minh tài
trí khác phàm, đặc tên là HỒNG VIÊM. Vì sao lại là tên Hồng Viêm, vì lúc Đế
Nương sắp sanh Quí Tử, liền thấy Thiên Thần đến lễ bái nói chúc mừng Đế Nương.
VIÊM Đế xuống trần là nhà Bác Học Thần Nông, chủ nhân của Ngũ Cốc, chủ nhân của
Lúa, Gạo, nói xong các Thiên Thần liền biến mất. Nên sanh ra Quí Tử, Hồng Đế
đặc tên cho con là Hồng Viêm. Hồng Chúa Kinh, Thượng khắp nơi đến chúc mừng.
Ở
giai đoạn Hồng Bàng, đứng đầu Hồng Bàng là Hồng Đế, dưới Hồng Đế là Hồng Chúa
trấn giữ khắp nơi, người kinh lẩn người thượng, kẻ ở cao người ở thấp. Ở giai
đoạn Hồng Bàng người Kinh cũng như người Thượng, một phần sống dọc theo hạ lưu
thượng nguồn sông Mê Công, một phần người Kinh cũng như người Thượng sống dọc
theo hạ lưu thượng nguồn sông Trường Giang.
Hạ
lưu thượng nguồn sông Mê Công, hạ lưu thượng nguồn Nam sông Trường Giang song
song cách nhau không xa. Thượng nguồn hạ lưu của hai con sông này hình thành
dân tộc Đông Nam Á.
Thời
Hồng Đế dân tộc Đông Á chỉ là một thượng nguồn của các con sông lớn như: Mê
Công, Trường Giang, Hoàng Hà, đến giai đoạn cuối một hai đời Hồng Đế, dân tộc
Đông Nam Á mới tách lần ra làm đôi, Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
Đến
thời VIÊM ĐẾ thời coi như tách hẳn ra, Đông Nam Á và Đông Bắc Á thời chuyển
sang thời Kinh Dương Vương kéo dài hơn 2 nghìn năm, rồi chuyển sang giai đoạn
Hùng Vương kéo đài 2701 năm.
Đây
nói về Hồng Viêm ra đời, càng lớn càng thông minh lạ thường, phát minh sáng
kiến ra nhiều điều mới lạ, nhất là về lĩnh vực Ngũ Cốc. Hồng Viêm dẩn theo
thuộc hạ, trèo non lặng suối tìm kiếm những giống Ngô, giống Quả, giống Củ
hoang dại ở khắp nơi. Nhất là những giống cỏ lúa, đuôi Công, đuôi Phụng, đem về
lai tạo thành giống thuần chủng cho năng xuất cao, cho kết quả bất ngờ trúng
lớn. Ngô, Quả, Củ đầy rẫy đầy nương. Đặc biệt nhất là từ những cỏ lúa hoang
dại, dọc theo hai bên bờ sông, mọc những nơi đầm lầy trên khô dưới nước. Dân
Hồng Bàng gọi đó là cỏ phúc nuôi Chim Trời, đủ loại Chim tới đây tìm ăn, nhất
là Chim Hồng Lạc loại Chim khôn ngoan hiền lành. Nhờ có tài Lai Tạo, Hồng Viêm
lai tạo giống, biến chúng thành giống lúa nước thuần chủng cho năng xuất cao.
Từ
trước đến nay, dân tộc Hồng Bàng chỉ biết lấy việc săn bắn hái lượm để mà sanh
sống, nay thấy Lúa, Ngô, Khoai, Sắn do VIÊM ĐẾ lai tạo mới lạ đạt năng xuất, ăn
ngon bổ dưỡng, đẩy lùi đói khổ bệnh tật, đưa đời sống con người nhảy vọt lên
một tầm cao. VIÊM ĐẾ danh nỗi như cồn, tiếng tăm lừng lẫy, Công to Đức lớn,
được Thiên Hạ suy tôn là Thần nông, vị thần Ngũ Cốc lúa gạo.
Khi
lên ngôi thay Cha là Hồng Đế trị vì Thiên Hạ. Hồng Viêm đổi niên hiệu. Từ Hồng
Đế chuyển sang giai đoạn Niên Hiệu VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG. Truyền được 10 đời, đồng
danh hiệu là VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG.
Đến
đời VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG thứ 10, có cháu Đế Tôn do Đế Nương sanh ra, khôi ngô tuấn
tú, dũng mảnh phi thường, mới sanh ra đã biết đi, ba ngày sau thời biết chạy,
mau lớn khác thường, đi trên nước cũng như đi trên cạn, sức mạnh quật ngã con
Voi lớn lực lảm kinh người, khai phá đất đai mau chóng bằng hàng trăm người, mở
mang ruộng đất cho việc trồng ngô, cấy lúa.
Đời
sống con người từ đó nhảy vọt lên một mức cao nữa, danh nỗi như sấm, Đức cả bay
xa nên được Thiên Hạ suy tôn là Đức Sùng Lảm, ý nghĩa của ba chữ Đức Sùng Lảm
là. Đức là nói đến công lao khai phá mở rộng ruộng đất, đem lại đời sống no ấm
cho con người. Sùng là tôn sùng, kính trọng, kính phục. Lảm là nói đến sức mạnh
lực lảm không ai hơn. Hay còn gọi là Đế Tôn Thần Sấm ai nghe đến cũng khiếp sợ.
Đức
Sùng Lảm khi lên ngôi thay cho Đế Nội, VIÊM ĐẾ đời thứ 10 trị vì Thiên Hạ, liền
chuyển đổi Niên Hiệu. Từ VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG chuyển sang giai đoạn Niên Hiệu KINH
DƯƠNG VƯƠNG. Truyền được 9 đời, đồng danh hiệu là Kinh Dương Vương. Đến đời
KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 9 cầu hôn Thần Long Nữ ở Bộ Tộc Long Giao Đông Giao
Chỉ kết duyên thành phu phụ. Khi Thần Long Nữ sắp sanh con, thời Hoa Lan khắp
non sông nước Xích Quỷ đều nở rộ hương thơm ngào ngạc, ngày 20 tháng 2 coi như
là ngày hội Hoa Lan nên Kinh Dương Vương đời thứ 10 đặc tên cho con là Hùng
Lan.
*********
Hết
phần 2 chương 4 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 3 chương 4.
CHƯƠNG
4
PHẦN 3
NGUỒN GỐC NAM KINH XÍCH QUỈ GIAO CHỈ
Khi
Sùng Lảm lên ngôi thay cho Đế Nội trị vì Thiên Hạ, liền chuyển đổi Niên Hiệu từ
VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG chuyển sang giai đoạn Niên Hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG. Kinh Dương
Vương không những có tài mở mang về Nông Nghiệp mà còn có tài Bác Học phát minh
ra Nền Văn Hóa giao tiếp, Hội Họa và các dấu hiệu ra ni, thành văn pháp thay
cho lời nói. Nhờ phát minh ra Nền Văn Hóa giao tiếp, gỡi thông điệp cho qua tấm
da thú, đưa con người xích lại gần nhau, hiểu nhau cách xa hàng nghìn dặm, hình
thành tính cách ngoại giao với nhiều Bộ Tộc, Bộ Lạc, trao đổi thông tin nhau.
Đến đời Kinh Dương Vương thứ 4, Vương Hậu Nương Nương khi sắp sanh Quí Tử liền
thấy một con Rồng vàng to lớn đến chào Bà, sau đó không bao lâu chuyển mình
sinh ra Quí Tử. Nên KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ tư đặc tên cho con là Long Nhi.
Long Nhi lớn mau như thổi thông minh kỳ lạ, học đâu nhớ đó, võ nghệ siêu quần,
triệt hạ đàn Sư Tử dể như chơi, phóng lao vài dặm chẳng ai qua, đi dưới nước
như trên khô.
Ở
vào thời kỳ ấy đã có một số ít Bộ Tộc hình thành dọc theo sông Nam Trường
Giang, nhưng bị thuồng luồng, sấu Quỉ, Trăn Quỉ, Hổ Quỉ sát hại. Vì sống không
nỗi với bầy lũ Quỉ, trong số các Bộ Tộc sống rãi rác, Bộ Tộc Kinh Hoa là bị lũ
Ác Quỉ sát hại nhiều hơn cả, liền gởi thông điệp về cho Kinh Dương Vương với
năm bức họa tiết thông điệp như sau.
Bức thứ nhất: Họa tiết đất bằng đất đai rộng lớn, thuận lợi cho
việc trồng lúa, trồng ngô.
Bức thứ hai: Họa tiết nói lên nơi đây có nhiều loài Thủy Quái hung
dữ như thuồng luồng Quỉ, cá Sấu Quỉ, Trăn Quỉ, Rắn Quỉ, Hổ Quỉ chúng theo bám
con người tàn sát dữ dội.
Bức thứ ba: Họa tiết nói lên các loài Thủy Quái phá hại mùa màng,
có phép thuật vô cùng lợi hại như đi gió về mây, gây ra cảnh lụt lội tàn phá
cuộc sống của dân.
Bức thứ tư: Học tiết Kinh Dương Vương đem quân đánh Quỉ, đuổi
chúng đi nơi khác hoặc tiêu diệt chúng.
Bức thứ năm: Họa cảnh nói lên sau khi dẹp xong loài Thủy Tộc, Thuồng
Luồng Quỉ, Cá Sấu Quỉ, Trăn Quỉ, Rắn Quỉ, Hổ Quỉ, dựng lên đất nước giàu có, ấm
no hạnh phúc.
Nói
về Long Nhi lớn lên trở thành Long Vương Tử Tài Đức song toàn. Kinh Dương Vương
xem xong 5 bức thông điệp do Bộ Tộc Kinh Hoa gởi đến, Kinh Dương Vương xem tới
đâu gật đầu tới đó nhưng không có ý kiến gì. Liền đưa 5 bức họa tiết thông điệp
cho Long Vương Tử xem, Long Vương Tử xem xong lấy làm mừng rở, bằng xin Cha ban
cho ấn lệnh đem quân dẹp loạn yêu Quỉ. Kinh Dương Vương bằng lòng, Long Vương
Tử liền phát động đại quân tiến về Đông Hải đến Long Giao, tiến đánh các loài
Thủy Tộc yêu tinh ác Quỉ.
Long
Vương Tử đi đến đâu, các loài Thủy Tộc kinh hồn khiếp vía đến đó, Long Vương Tử
chính là Rồng Chúa đầu thai nên các loài yêu Quỉ Thủy Tộc thấy Long Vương Tử
đến đâu là kinh khiếp đến đó. Bị Long Vương Tử dùng pháp thuật bắt hết, số nào
chống cự lại thời bị giết, số nào bị bắt thời xiềng xích chờ ngày trị tội. Diệt
xong các loài Thủy Tộc, Trăn Tinh, Xà Tinh, Hổ Tinh phải mất cả năm, số còn
sống sót thời trốn chạy ra biển, ở trên các hải Đảo hoặc trốn chạy qua xứ khác,
thu phục một vùng đất đai rộng lớn thuộc phía Nam sông Trường Giang giáp biển.
Long
Vương Tử từ thượng nguồn Tây Bắc Côn Minh đánh xuống Quý Dương, Trùng Khánh,
Quế Lâm, Chu Châu, Liễu Châu, Thiều Quang, Nam Xương, Hàng Châu, Hạ Môn nói
chung là hầu hết Lảnh Nam Trung Quốc ngày nay. Dẹp xong loài Thủy Tộc, Thuồng
Luồng Quỉ, Cá Sấu Quỉ, Trăn Quỉ, Rắn Quỉ, Hổ Quỉ, sau đó là cho quân binh khai
phá đất đai, màu mở trồng ngô cấy lúa, đưa thời đại Kinh Dương Vương tiến lên
một bước giàu sang mới.
Long
Vương Tử lên ngôi thay cha Kinh Dương Vương đời thứ 5 dời Kinh Đô về Giao Chỉ
lập lên nước Xích Quỉ. KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 5 là vị vương Thiên Tài, Đức Độ
hơn người, chăm lo phát triển Nông Nghiệp, phát triển Nền Văn Hóa giao tiếp,
thuận tiện cho việc ngoại giao, trao đổi hàng hóa, dụng cụ, lương thực khắp xa
gần lân ban các nước bạn.
Khi
ấy phía Bắc, Bắc sông Trường Giang, các Vương Đế cũng đã hình thành, nói chung
là Dân Tộc Đông Nam Á hay Dân Tộc Đông Bắc Á cũng chỉ là con cháu của Huỳnh Đế,
Hồng Đế mà thôi.
Ở
cuối thời Hồng Đế. Nam sanh VIÊM ĐẾ: thời Bắc sanh PHỤC HI: anh em một nhà.
VIÊM ĐẾ: là nhà Bác Học NÔNG NGHIỆP. PHỤC HI: là nhà Bác Học CÔNG NGHIỆP tơ
tằm, bông vãi dệt lụa.
Khi
Nam chuyển sang giai đoạn KINH DƯƠNG VƯƠNG thời Bắc chuyển sang Vương Đế, Đế
Lai, Đế Nghi, Đế Minh, Đế Hạ, Đế Vũ v.v… Sự giao thương qua lại, Nam Bắc mỗi
ngày một nâng cao nhưng mầm họa chiến tranh cũng từ đó mà phát triển. Do đâu?
Do tham lam mà ra cả.
Cho
đến đời Kinh Dương Vương đời thứ chín, húy hiệu là Lộc Tục hay còn gọi là Lộc
Vương. Sanh ngày mùng 6 tháng 3 năm giáp tý, 3084 trước Công Nguyên. Vương Hậu
KINH DƯƠNG đời thứ 8 khi Vương Hậu sắp sinh con, trong lúc mơ màng yên giấc
ngủ, liền thấy Thần dân trong nước ở khắp mọi miền đem cúng nạp vô số châu báu
trâm bảo quí hiếm, vàng bạc, ngà voi, sừng tê giác, ngọc trai, trầm hương, mật
gấu đầy nhà chật kho. Quả thật khi Vương Hậu sanh Quí Tử xong thời dân khắp mọi
miền đất nước đem châu báu trâm bảo, sơn hào hải vị hiếm quí dâng lên Vua mừng
Thái Tử ra đời, nên Kinh Dương đời thứ 8 đặc tên cho con là Lộc Tục hay còn gọi
là Lộc Vương.
Lộc
Tục càng lớn càng hiền lành nhưng lại nhà Quân sự tài giỏi nhất đương thời, vốn
bản chất chân tu không háo sắc nên không có nhiều thê thiếp. Khi lên nối ngôi
thay cha cũng đồng danh hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 9, không tuyển thêm thê
thiếp gì cả, tuổi đã lớn gần trăm nhưng chưa có con nối dòng làm lo lắng cho
các quan.
Thấy
các quan buồn, Kinh Dương Vương hỏi có việc chi mà các quan các khanh lo lắng
rầu rĩ. Quốc Sư Thục Lục thưa, bẩm Quốc Vương nước Xích Quỉ không thể không có
người nối dõi, Vương Hậu nay đã lớn tuổi gần trăm khó mà có con được nữa. Quốc
Vương nên chọn thứ Hậu để sanh Thái Tử nối dõi ngôi vương. Ở Giao Chỉ có Vương
Tộc Long Giao vốn nhà tông, sanh ra út nữ, Tiểu Long Công Nương, nổi tiếng xinh
đẹp tuyệt trần, nhân từ khắp vùng, không ai là không ngưỡng mộ. Quốc Vương nên
cầu hôn với Tiểu Long Công Nương, Thần Long Nữ về làm thiếp may ra sanh được
con Trai. Kinh Dương Vương nghe chí phải, liền cho người đến Bộ Tộc Long Giao ở
Đông Giao Chỉ giáp biển, cầu hôn. (Bộ
Tộc Long Giao sau này trở thành Dân Tộc Nhật).
*********
Hết
phần 3 chương 4 mời xem tiếp phần 4 chương 4 Long Hoa Mật Tạng, Bộ kinh Nguồn
Cội tối cao truyền thống anh linh dân tộc Việt Nam. Những gì thất truyền đã
hiện rõ. Vần Thái Dương đã trở lại sáng bừng trên non sông đất Việt.
Việt Nam
chữ S nở hoa
Việt Nam
tỏ rạng bài ca thanh bình
Cội Nguồn truyền thống anh linh
Sáng bừng chân lý hiển vinh đời đời.
CHƯƠNG 4
PHẦN 4
DÂN SỐ - CHÂU BỘ
CUỐI THỜI KINH DƯƠNG VƯƠNG
Nước
Xích Quỉ thời dựng nước chỉ có 7 Bộ, 42 Châu nhưng về sau dân số tăng lên, nên
tăng thêm hai Bộ nữa thành 9 Bộ, 53 Châu.
1-
Giao Chỉ: 92.440 hộ, 746.237 người.
2-
Cửu Chân: 15.398 hộ, 78.980 người.
3-
Nhật Nam: 15.460 hộ, 69.458 người.
4-
Hợp Phố: 16.398 hộ, 78.980 người.
5-
Nam Hải: 19.613 hộ, 94.253 người.
6-
Uất Lâm: 12.415 hộ, 71.162 người.
7-
Thương Ngô: 24.375 hộ, 146.160 người.
8-
Ninh Hải: 25.437 hộ, 172.263 người.
9-
Vũ Ninh: 21.280 hộ, 136.667 người
Phải
nói nước Xích Quỷ ở gần cuối thời KINH DƯƠNG VƯƠNG không những rộng lớn mà dân
số cũng đông đúc vô cùng. Đây nói đến những Bộ Tộc anh em ở Đồng Bằng, còn
những Bộ Tộc anh em ở trên cao sống ở trên cao dân tộc thượng chưa kể đến. Kinh
hay Thượng cũng chỉ là danh từ đặc ra để gọi, thật ra Kinh Thượng vốn là anh em
một nhà. Kẻ thích ở cao sống dọc theo sường đồi gọi đó là Dân Tộc Thượng. Người
thích ở thấp, Đồng Bằng sông Hồ Kinh rạch gọi là Dân Tộc Kinh. Kinh Thượng
thường lên xuống lại qua chung sống với nhau.
*********
Hết
phần 4 chương 4 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 1 chương 5. Phong tục tập
quán mỗi dân tộc Bách Việt Văn Lang mỗi khác. Nhưng truyền thống anh linh Bách
Việt Văn Lang chỉ có một. Đó là Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Văn Lang. Bách
việt Văn Lang đều sống trong một ngôi nhà chung là sống theo Hiến Pháp, Luật
Pháp, Đạo Pháp, Công Bằng, Bình Đẳng Nền Quốc Đạo Văn Lang.
CHƯƠNG
5
PHẦN 1
SỰ RA ĐỜI VÌ QUỐC TỔ THIÊN TÀI CÓ MỘT
KHÔNG HAI TRONG NHÂN LOẠI CON NGƯỜI
Thời
kỳ phồn thịnh của nền văn minh lúa nước, văn minh giao tiếp, kéo dài hơn mấy
nghìn năm. Từ thời VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG cho đến thời KINH DƯƠNG VƯƠNG với địa thế
đất đai rộng lớn màu mỡ, bởi hàng năm phù sa theo các dòng sông bồi đắp, đưa
đến dân giàu nước mạnh. Nước Xích Quỉ bao trùm hầu hết Giang Nam Trung Quốc.
Chín
vị vương KINH DƯƠNG VƯƠNG tiếp nối nhau trị vì Thiên Hạ. KINH DƯƠNG VƯƠNG đời
thứ 9 là vị vương nổi tiếng không ham thích tửu sắc, Nhân Đức hiền từ, tuổi đã
hơn trăm nhưng chưa có con nối dõi nối dòng làm lo lắng cho các vương quan Đại
Thần.
Thấy
các quan buồn KINH DƯƠNG VƯƠNG hỏi:
Có việc chi mà các quan các khanh lo lắng
rầu rĩ.
Quốc
Sư Thục Lục thưa:
Muôn tâu Quốc Vương, Vương Hậu gần hết tuổi
sanh con, tuổi trung niên sắp qua, tuổi về già lại đến khó thể sanh con được
nữa, Quốc Vương nên thu nạp thứ thiếp may ra có thể sanh con nối ngôi Quốc
Vương Bệ Hạ. Muôn dân trăm họ đặng nhờ. Giữ vững cơ nghiệp Tiên Đế Cha Ông.
Đông Giao Chỉ có Vương Tộc Giao Long, Vương Chúa có con gái út nữ Tiểu Long
Công Chúa, sắc nước hương Trời, nổi tiếng thông minh hiền hậu hiếm thấy trên
đời, tuy đã lớn tuổi nhưng Tiểu Long không thích lấy chồng vì cho rằng không ai
là người xứng đáng với nàng. Vương Chúa vì thương nên không ép có chồng, tùy
Công Chúa Tiểu Long Nữ lựa chọn quyết định.
KINH
DƯƠNG VƯƠNG nghe Quốc Sư Thục Lục kể về Tiểu Long Nữ tính tình kỳ lạ, mà ngay
cả người Cha cũng kỳ lạ như thế, lấy làm kinh ngạc hỏi:
Có chuyện kỳ lạ đó sao?
Thục
Lục thưa:
Bẩm Quốc Vương chuyện Hạ Thần kể đều lạ sự
thật. Quốc Vương nên cầu hôn với Tiểu Long Nữ về làm thứ thiếp, may ra có thể
sanh con. Nối ngôi Quốc Vương, muôn dân trăm họ đặng nhờ, giữ vững cơ nghiệp
Tiên Đế Cha Ông.
Kinh
Dương Vương nghe phải gật đầu, nhưng nói:
Để ta suy nghĩ tính sau.
Thục
Lục làm thinh không dám tâu nữa.
Nói
về Vương Hậu không có con lấy làm lo lắng, lúc nào cũng khuyên Kinh Dương Vương
thu nhập thứ thiếp, để sanh con nối dõi ngôi vương. Kinh Dương Vương ầm ừ qua
chuyện, ngày qua tháng lại không đá động gì đến kết nạp thê thiếp, làm lo lắng
cho các vương quan Đại Thần, nhất là Vương Hậu.
Kinh
Dương Vương chỉ thích tu luyện hơn là nạp thê thiếp, Kinh Dương Vương tu luyện
đạt đến cảnh giới Địa Tiên, pháp thuật võ nghệ cao cường, đi trên nước như đi
trên đất bằng, đi qua con suối, con khe, hố sâu, vực thẳm, núi cao như đi trên
thảm cỏ. Không hiểu vì sao hôm nay Kinh Dương Vương lại muốn dạo chơi nơi Hồ
Động Đình, danh lam thắng cảnh thời đó, nhất là dịp xuân về, cảnh sắc nơi đây
như bồng lai Tiên Cảnh. Kinh Dương Vương quyết định đi một mình nên không cho
ai biết, lặng lẽ một người một ngựa âm thầm ra khỏi cung cấm, nhắm mắt hướng Hồ
Động Đình vó ngựa lao đi. Kinh Dương Vương tuy đã hơn trăm tuổi nhưng tráng
kiện như trai trẻ khôi ngô tuấn tú oai phong lẩm lẩm, nhìn vào chỉ độ 40 tuổi
là cùng. Có lẽ Kinh Dương Vương nhờ tu thiền luyện khí nên giữ được bản sắc
tướng lâu già, da dẻ hồng hào, trai tráng cũng khó mà hơn được. Cỡi con Huyết
Hản Long Câu Thần Mã lao đi vùn vụt, nhìn cảnh non xanh nước biếc, lũy tre đồng
ruộng, cây đa, bến đò con nước, người người đông đúc qua lại, bề bộn, dập dìu.
Cảnh
thái bình thịnh trị khắp nơi nơi, không người ăn xin, ai cũng được no cơm ấm
áo. Kinh Dương Vương lòng đầy khoan khoái, cho ngựa đi chầm chậm thưởng thức
cảnh miền quê êm ả hiền hòa. Trước mặt là con sông lớn nhưng Kinh Dương Vương
hình như không để ý, ngựa người vẫn lướt bon bon trên mặt nước, ai nhìn thấy cứ
ngỡ đó là Thần Tiên trên trời dạo chơi nơi chốn nhân gian, vượt qua bao rừng
núi, con suối, con khe, hố sâu vực thẳm như đi trên đường lộ, nhìn cảnh núi
rừng hoa khoe sắc thắm, hương thơm nức mũi, đá chen hoa hoa chen lá, lá trong
mây, mây trong gió, gió làm cho người dễ chịu khoan khoái lân lân.
Ôi
Quê Hương, ôi Núi Rừng xanh biếc Đá chen Hoa, nực Hương trời thơm ngát Hoa chen
lá, cảnh Bồng Lai hạ giới Lá chen Mây, đang thì thầm xuân tới Mây trong Gió, tình càng thêm nồng ấm đưa hồn
người lên tới tận trời xa. Cảnh Thái Bình, trổ no ấm âu ca. Kinh Dương Vương,
lòng đầy khoan khoái, ngựa cùng người chầm chậm lướt lướt qua. Kinh Dương Vương
nhìn cảnh Núi Rừng muôn Hoa đua sắc, mùa xuân lại về, mùa hội tụ lại đến, cảnh
bà con thân tộc, cha con chồng vợ anh em sum vầy ấm cúng, bên cổ mâm xôi, bên
nồi bánh tắc, Xuân Trời, Xuân Đất, Xuân Tình thi nhau nở rộ.
Hồ
Động Đình lần lần xuất hiện, Kinh Dương Vương cảm thấy rất vui, thoáng cái
người ngựa đã đến nơi. Hồ Động Đình quang cảnh vừa kỳ bí vừa xinh đẹp, chẳng
khác gì Bồng Lai Tiên Cảnh, có lẽ nơi đây là Bồng Lai chốn cõi trần. Kinh Dương
Vương xuống ngựa đi dạo quanh bờ Hồ như đang lạc vào Bồng Lai Tiên Cảnh. Bổng
xuất hiện giữa Hồ một bóng Hồng tha thướt, tà áo miên man phất phơ theo gió.
Kinh Dương Vương bị cuốn hút theo người con gái đẹp như Hằng Nga gián thế, bước
chân nhẹ nhàng trên mặt nước. Kinh Dương Vương nghỉ nàng là ai từ đâu đến, Thần
Tiên ở cõi nào đến dạo chơi nơi đây.
Nàng là ai, từ đâu nàng đã đến
Như vầng trăng, rực sáng cõi nhân gian
Ta đang mơ, hay lạc đến Thiên Đàng
Tà áo nhẹ, lướt trên Hồn thi sỉ
Nàng là Ma, hay là loài ác Quỷ
Cuốn hồn ta, theo nhịp bước nàng đi
Nàng là ai, nàng đừng vội bay đi.
Kinh
Dương Vương nhìn nàng con gái thanh nhã, cao sang như đang tìm kiếm vật gì đó.
Kinh Dương Vương nào có hay biết người con gái xinh đẹp quí phái kia đang tìm
kiếm giấc mơ của mình mà Nữ Thần hạnh phúc đã mách bảo. Con hảy đến giữa lòng
Hồ Động Đình tìm lấy hạnh phúc của con. Nàng đến đây tìm hơn nữa giờ mà vẩn
không thấy, quả tim hạnh phúc ở đâu. Nhưng nàng vẫn kiên trì đi tới đi lui giữa
Hồ để tìm kiếm.
Kinh
Dương Vương bị cuốn theo sắc đẹp bước chân, tà áo và sự tìm kiếm của nàng. Kinh
Dương Vương như bị nam châm hút lấy, phi thân xuống Hồ đi ra gặp nàng. Người
con gái đẹp như Tiên Hằng Nga đang tìm kiếm gì đó giữa mặt Hồ, bổng phát hiện
có người từ xa đi đến, đi trên mặt nước như đi trên đất liền, thời lấy làm kinh
ngạc, nhìn xem người tài cao đó là ai, Thần Tiên ở cõi nào đến, khi đã nhìn rõ,
nàng bỗng nhiên hồi hộp lạ thường. Thì ra người mới đến là một trung niên cao
to vạn vở, khôi ngô tuấn tú, khí sắc oai hùng, chẳng kém gì Thần Tiên gián hạ
dạo chơi chốn phàm trần, quả tim nàng đã đập loan lên.
Kinh
Dương Vương càng tới gần càng thấy người con gái đẹp lộng lẫy, có lẽ còn đẹp
hơn cả Hằng Nga nữa là khác. Kinh Dương Vương vốn là người không màn đến tửu
sắc, thế mà nhìn người con gái mới gặp gỡ này quả tim liền rung động. Người con
gái thấy khí sắc oai hùng khôi ngô tuấn tú.
Kinh
Dương Vương sanh tâm kính mến bước tới chào hỏi. Nhìn vẻ quí phái cao sang lễ
phép cung cách như Công Chúa, thời nhìn sửng nghỉ nàng là ai? Đến khi giật mình
thời nhận ra sự thất kính của mình thời:
Xin lỗi, xin lỗi cô nương tha cho sự vô lễ
thất kính của tôi.
Nhìn
vẽ lúng túng điệu bộ của Kinh Dương Vương có pha chút khôi hài, nàng liền hết
giận phì cười, ôi nụ cười của nàng đẹp làm sao, tươi như cánh Hoa mới nở, đẹp
như mùa xuân rực rỡ. Kinh Dương Vương không kiềm được lòng mình, khen nàng cười
đẹp quá. Có phải đây là duyên nợ hay không. Biết bao nhiêu lần khen nàng cười
đẹp nhưng nàng không hề chú ý, nhưng lần này lại khác. Nàng nghe như mật ngọt
rót vào hồn lân lân khó tả, quả tim đập mạnh đôi má ửng hồng, như vừa uống phải
một ly rượu mạnh.
Bổng
cô bạo dạng lên tiếng:
Ngài là ai tìm tôi có chuyện gì?
Thấy
Kinh Dương Vương lặng im không trả lời nàng có ý hờn giận, hỏi lại như có vẻ
hơi gắt gỏng hơn:
Ngài tìm Tiểu Long Nữ tôi có chuyện gì?
Kinh
Dương Vương à một tiếng nghỉ thì ra đây là Tiểu Long Công Chúa, Vương Tộc Long
Giao. Kinh Dương Vương vô cùng kinh ngạc đến đổi đờ người ra, không lẽ đây là
duyên tiền định. Kinh Dương Vương nhìn Tiểu Long Công Chúa đang giận dỗi liền
phì cười:
Chấp tay xin lỗi, xin lỗi Tiểu Long Công
Chúa, tôi là Lộc Tục, theo giấc mơ đến đây vô tình gặp Công Chúa mà thôi.
Tiểu
Long Nữ nghe Kinh Dương Vương nói thế thời lấy làm kinh ngạc, tự nghỉ sao lại
trùng hợp với mình thế, mình cũng đang tìm giấc mơ hạnh phúc. Thế là lời qua
tiếng lại càng lúc càng tâm đầu ý hợp, như đã quen biết từ lâu rồi, tình yêu
liền đâm chồi mọc rễ hòa quyện lẩn nhau.
Mưa yêu từ thuở xa xăm
Cho hạt nẩy mầm xanh tốt từ đây
Trời xanh gió đã dìu mây
Cây đà nẩy lộc, vương cành đơm hoa
Chim Tình mọc cánh bay xa
Vườn xuân vầy hội Bướm Hoa tựa kề
Hồ gương in bóng trăng thề
Trúc - Mai má tựa vai kề yến oanh.
Kinh
Dương Vương tuy là người không háo sắc nhưng gần Tiểu Long Nữ cầm lòng không
được liền bước tới nắm lấy tay nàng nói:
Ta tuy là vị Vương nỗi tiếng giàu có hùng
mạnh nhưng ta chưa bao giờ xâm lược hay đàng áp Bộ Tộc, Vương Tộc nào, luôn
luôn tôn trọng lẩn nhau, kết tình bằng hửu. Nhất là Vương Tộc Long Giao ta vô
cùng kính mến.
Tiểu
Long Nữ cắt ngan:
Thì ra chàng đã biết Tiểu Long là Công Chúa
Long Giao.
Kinh
Dương Vương nói:
Ta nghe nàng nói nàng là Tiểu Long Nữ, ta
liền nghỉ ngay nàng là Tiểu Long Công Chúa.
Tiểu
Long Công Chúa như chợt nhớ ra điều gì nhìn Kinh Dương Vương một cách kỳ lạ. Kinh
Dương Vương thấy cử chỉ Tiểu Long Nữ khó hiểu:
Ta kỳ lạ lắm sao mà nàng nhìn ta dữ vậy.
Tiểu
Long Nữ bắt đầu nói:
Không phải.
Kinh
Dương Vương không hiểu gì cả.
Tiểu
Long Nữ hỏi! Chàng nói chàng là Vua một đất nước giàu có hùng mạnh.
Kinh
Dương Vương gật đầu.
Vương
Quốc nước Xích Quỉ sao? Kinh Dương Vương lại gật đầu, chàng là Kinh Dương
Vương, Kinh Dương Vương lại gật đầu, thiếu chút nữa Tiểu Long Nữ la lên vì kinh
ngạc. Có lẽ lời đồn đã sai.
Kinh
Dương Vương hỏi! Nàng nghe đồn gì về ta.
Tiểu
Long Nữ nói lời đồn Kinh Dương tuổi đã cao có dư trăm, lại chưa có con nối dõi.
Ngôi Quốc Vương sẽ đổi chủ. Dòng dõi Kinh Dương Vương kết thúc.
Kinh
Dương Vương thở dài cũng tại ta, không chịu kết nạp thê thiếp.
Tiểu
Long Nữ nói thật kỳ lạ Kinh Dương Vương lời đồn dư trăm tuổi, còn Kinh Dương
Vương, Long Nữ gặp đây chỉ độ 40 tuổi là cùng.
Kinh
Dương Vương lại thở dài nói:
Có lẽ do ta tu luyện, cũng có lẽ trời phú
cho ta lâu già, ta nay đã 100 tuổi hơn nữa đời người.
Tiểu
Long Nữ như có điều suy nghỉ, nhưng thoáng chốc Tiểu Long Nữ vui trở lại, hai
người dạo chơi hết dưới nước rồi lên bờ Hồ, cuộc vui chơi nào cũng đến lúc chia
tay. Tiểu Long Nữ về Vương Tộc Long Giao. Kinh Dương Vương về Kinh Đô Xích Quỉ.
*********
Hết
phần 1 chương 5 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 2 chương 5.
CHƯƠNG
5
PHẦN 2
Hai
người chia tay không bao lâu, thời Kinh Dương Vương cho Sứ Thần qua Vương Tộc
Long Giao cầu hôn Công Chúa Thần Long Nữ. Thần Long Nữ vừa xinh đẹp vừa hiền
thục, nên về làm vương phi chưa lâu, thế mà đã chiếm được lòng các quan lớn nhỏ
trong triều.
Vương
Hậu không những không ganh ghét mà hết lòng yêu thương Vương Phi. Vương Hậu
thấy mình đã có lỗi trong việc sanh con đẻ cái, sợ dòng dõi Kinh Dương Vương
tiệt hậu. Nên sớm hôm lập bàn hương án cầu Trời cầu cho Vương Phi Thần Long Nữ
có con, sớm sanh Quí Tử. Có lẽ lời cầu nguyện ấy cảm ứng đến Đức Long Hoa Cha
Trời Lạc Long Quân và Đức Địa Mẫu Âu Cơ, nên Đức Cha Trời sai Đức Chí Tôn đầu
thai xuống chốn nhân gian, sanh vào dòng dõi Kinh Dương Vương làm con Thần Long
Nữ.
Nói
về Thần Long Nữ sau khi về làm vương thiếp không đặng bao lâu thời có mang, tin
vui này đã lan truyền khắp nước Xích Quỉ, làm cho cả nước Xích Quỉ reo hò nhảy
múa. Còn nơi Cung Vương Phi lúc nào cũng có kẻ ra người vào tấp nập. Vương Hậu
thường đến bầu bạn với Vương Phi. Kinh Dương Vương luôn luôn tạ ơn Trời Đất,
Hương Hoa, Trà, Quả cúng dường không ngớt. Có điều khác lạ ở đây, Kinh Dương
Vương không dâng cúng Gà, Heo, Trâu, Bò mà chỉ cúng bằng Hương Hoa, Trà Quả,
Rượu thơm, Xôi Nếp với tấm lòng thành kính của mình.
Có
lẽ Kinh Dương Vương nghỉ, Trời là Đức Hiếu sanh, tất cả sanh linh đều liên quan
đến nhà Trời nên không thể dùng sanh mạng dâng cúng, chỉ dâng cúng Hương Hoa,
Trà Quả, Rượu thơm, Xôi Nếp là thích hợp nhất. Sự cúng dường không sát hại sanh
mạng của Kinh Dương Vương làm tăng thêm phước Đức, các vị Thiên Thần hài lòng
lắm, nên luôn luôn hộ trì hộ độ cho Kinh Dương Vương cũng như dòng dõi vương
tộc bình an vạn sự.
Đúng
vào ngày 20 tháng 2 năm giáp thìn, Vương Phi Thần Long Nữ chuyển dạ sanh con.
Trước đó mấy hôm vào lúc canh ba, Thần Long Nữ trong lúc mơ màng, Trời Đất đang
trong sáng, bổng nhiên tối sầm, Ma Quỉ lộng hành, chúng thi nhau phù phép thổi
luồng tà khí, dục vọng, tham lam, ganh ghét, trộm cướp, hận thù, tranh giành
cuồng loạn, chém giết lẩn nhau, máu chảy thành sông, thây chất đầy núi. Cảnh
binh đao múa lửa dậy trời, nhà tan cửa nát, tiếng cầu cứu khóc la thảm thiết,
ôi thế nhân đến hồi mạc vận. Vương Phi Thần Long Nữ vô cùng kinh sợ, càng thấy
càng khiếp vía kinh hoàng, chưa biết phải làm sao.
Thời
lạ thay Vương Phi Thần Long Nữ thấy giữa không trung xuất hiện một vị Thiên Đế
uy nghi Hùng Dũng, tay cầm gươm báu, ba đạo Hào Quang sáng chóa, xông vào đám
Yêu Tinh mà diệt trừ. Vị Thiên Đế hét to. Hởi lũ Yêu Tinh, Tà Quỉ. Tà tánh của
các ngươi từ mê si ngu muội mà ra. Các ngươi là loài Quỉ dữ Ma Thiên. Chuyên
làm mưa làm gió gieo rắc chiến tranh. Đầu độc nhân loại. Làm tổn hại con cháu
nhà Trời. Nay ta vâng lệnh Cha Trời xuống thế mà trừ hại cho nhân loại con
người. Tức thời gươm Huệ vung lên Sấm nổ vang trời. Ba Đạo hào quang rực rỡ.
Hiện ra hàng nghìn hàng vạn mặt trời thiêu rụi Tà Quỉ Yêu Tinh. Bóng u minh,
khói lửa chiến tranh biến mất. Non sông đất nước thái bình. Bầu trời trong xanh
mát mẻ. Mùa xuân lại về, muôn hoa thi nhau đua nở. Chim muôn vạn thú ca hát
nhảy múa liếu lo. Cảnh ăn no mặc ấm, con đàng cháu đống tràng ngập thôn quê,
Phố thị, núi rừng. Vương Phi Thần Long Nữ còn đang ngơ ngơ ngẩn ngẩn mở to đôi
mắt mà nhìn. Bổng chốc vị Thiên Đế đến gần, hào quang rực rỡ mỉm cười rồi biến
mất.
Nói
về Vương Phi chuyển dạ cuối giờ Mẹo đầu giờ Thìn thời sanh ra một Hoàng Nam
tướng mạo khôi ngô tuấn tú. Giống hệt vị Thiên Đế trong giất mơ.
Lúc
Vương Phi Thần Long Nữ sắp sanh Thái Tử. Mùi Chiên đàng hương thơm ngát cả cung
thành. Kỳ lạ thay Hoa Lan khắp non sông Tổ Quốc đồng nở rộ, hương thơm ngào
ngạc rực rỡ chưa từng có trong đời.
Tiếng
hát ca từ Thiên Cung vọng xuống ca ngợi Đức Chí Tôn xuống thế Độ Đời. Các Thiên
Thần, thi nhau rưới hương Sen, hương Lan, hương Huệ, hương Mai, và còn nhiều
thứ hương khác nửa, từ trên không rơi xuống khắp khung thành. Những người ốm đau liền khỏi hẳn. Những người
mù lâu năm bổng dưng sáng mắt ra. Trí Đức tăng cao, mê mụi đẩy lùi. Ai nấy thấy
mình trào dâng sức sống. Mùi Hương thơm đã dứt đi sự lo âu sầu muộn, đưa con
người đến an lạc yên vui. Kinh Dương Vương nhìn Thái Tử triều mến thương yêu.
Vương
Phi Thần Long Nữ ngắm nhìn hài nhi hồi lâu, rồi thưa với Kinh Dương Vương rằng:
Hài Nhi quả đúng là vị Thiên Đế trong giất
mơ ấy rồi. Vị Thiên Đế anh hùng. Một mình quét sạch Yêu Tinh Quỉ Dữ.
Kinh
Dương Vương chiếu theo lời kể của Vương Phi. Thời vị Thiên Đế nầy, chính là Chí
Tôn anh hùng xuống trần cứu dân Độ Thế. Nên Kinh Dương Vương đặt tên cho Thái
Tử chữ đầu tiên là chữ Hùng khi sanh ra Thái Tử. Hoa Lan khắp non sông Tổ Quốc
nở rộ. Hương Lan thơm ngát lan tràng khắp hang cùng ngõ hẻm. Ta vốn chữ đầu là
Lộc, mùa xuân, Lan cũng thuộc mùa xuân. Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm. Vì
thế ta đặc Tên cho con ta là Hùng Lan. Thêm chữ Cao ở giữa vì Tổ Tiên Ta là
Trời. Từ thời Viêm Đế Thần Nông đến thời Kinh Dương Vương Ta đều thờ một chữ
Cao. Hùng Cao Lan. Nhưng khi gọi con chỉ gọi Hùng Lan vì Chữ Cao Họ Trời, Trời
Cao. Thiên Tổ Chúng Ta. Đây là điều cơ mật nối truyền cho đến ngày
nay. Hùng Lan còn nhiều ý nghĩa khác,
như Hùng Thiên, Hùng Khí, Hùng Anh. Lan tỏa, Lan tràn, Lan truyền, khắp Thế
Giới năm Châu bốn bể. Trần gian, Thiên đàng, Vũ trụ.
Còn
chữ Lang có g là sau nầy Hùng Lan. Dựng nước Văn Lang. Là một đất nước hung dữ,
như Lang sói Hổ Báo, đụng đến là bỏ mạng vì thế đã làm khiếp đảm quân thù,
ngoại xâm hàng nghìn năm. Vương phi Thần Long Nữ đã sanh ra vị Thiên Tài có một
không hai nơi trần thế, nên sau này Thần Long Nữ được suy tôn Đức Thánh Tổ Mẫu.
Chính là Đức Vương Mẫu trên cung Trời Đao Lợi Thiên, quyền lực vô biên.
*********
Hết
phần 2 chương 5 mời xem tiếp phần 3 chương 5 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật
Tạng là bộ kinh tối cao, những tinh hoa Mật Tạng Vũ trụ đều gói gọn trong bộ
kinh nầy. Những ai gặp được bộ kinh Long Hoa Mật tạng, phải nói là vô cùng hạnh
phúc. Có thể nói những người nầy đã tu vô lượng kiếp làm nhiều phước thiện, nên
mới sanh ra đúng thời kỳ Long Hoa Mật Tạng ra đời làm chủ vận mệnh, làm chủ tất
cả.
Đất nước Việt Nam thật diệu kỳ
Trổ Rồng trổ Phụng lắm uy nghi
Lịch sử Cha Ông rền sông núi
Tài đức song toàn sách sử ghi
Văn Hóa Rồng Tiên đã ra đời
Sáng bừng chân lý sáng ngời ngời
Con cháu Tiên Rồng anh linh khắp
Việt Nam
hùng khí rạng tinh khôi.
CHƯƠNG
5
PHẦN 3
XEM TƯỚNG.
Thành
Giang Nam có vị Đạo Sĩ kỳ tài, nổi tiếng chuyên đón mộng lại có tài xem tướng
như Thần, nổi tiếng như sấm. Nay Thái Tử Hùng Lan vừa tròn một tuổi. Kinh Dương
Vương cho người mời Đạo Sĩ tài ba ấy vào cung đón mộng cho Vương phi Thần Long
Nữ, xem tướng cho Thái Tử Hùng Lan, lành dữ vận mệnh về sau thế nào.
Đạo
Sĩ nhà tướng số 1 kỳ tài đương thời được đưa vào cung ra mắt Kinh Dương Vương
và Vương Phi Thần Long Nữ. Kinh Dương Vương xem qua tướng mạo Đạo Sĩ thấy trên
đầu có Hào Quang tỏa ra thời lấy làm vừa lòng lắm nói:
Ta đã nghe tài năng của Đạo Sĩ từ lâu nay ta
có việc cần nhờ Đạo Sĩ giúp cho.
Đạo
Sĩ chấp tay hành lễ nói:
Bẩm Quốc Vương bần Đạo sẽ làm hết khả năng của
mình, Quốc Vương cứ dạy bảo.
Kinh
Dương Vương nói Vương Phi hãy kể lại giấc mộng trước khi sanh Thái Tử cho Đạo Sĩ
nghe đi. Vương Phi nói thần thiếp tuân lệnh: Vương Phi liền kể lại đầu đuôi
giấc mộng trước khi sanh Thái Tử.
Đạo
Sĩ ngồi chăm chú lắng nghe, vương phi kể đến đâu Đạo Sĩ kinh hãi đến đó, Vương
Phi kể xong Đạo Sĩ nói:
Bẩm
Quốc Vương có thể cho Bần Đạo xem qua tướng Thái Tử được không.
Kinh
Dương Vương nói:
Được được chứ, đó là mục đích chính ta mời
Đạo Sĩ đến đây.
Liền
cho Cung Nữ xảo yếu hầu tì bồng Thái Tử ra. Đạo Sĩ vừa nhìn thấy Thái Tử thời
sửng sốt vì trên đầu Thái Tử phát ra Hào Quang Trí Huệ, tuy chưa sáng tỏ lắm,
từ xưa đến nay Đạo Sĩ chưa từng thấy dù cho đó là Thiên Tiên hay Địa Tiên.
Khi
được tận mắt chứng kiến một nhân thể bất phàm, có đủ 32 tướng tốt 80 vẽ đẹp.
Quả đúng là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống trần, có 1 không 2 trong nhân loại.
Nếu xuất gia sẽ là Phật Tổ, Chúa Tổ, còn không xuất gia sẽ là Chuyển Luân
Vương, không đánh mà hàn phục được Thiên Hạ. Bất chiến tự nhiên thành. Lập lên
đất nước rộng lớn, mở ra trang sử mới. Trang sử vẻ vang đưa đời sống nhân loại
vượt lên tầm cao mới. Mở màn cho nền văn minh vật chất lẩn tinh thần, khám phá
lần về vũ trụ, làm chủ vũ trụ. Chân lý Đại Đồng sẽ mở màn ra đời.
Đạo
Sĩ rơi lệ quì xuống vái lạy Thái Tử. Kinh Dương Vương giật mình, vương Phi kinh
hãi, không hiểu chuyện gì xảy ra.
Kinh
Dương Vương lo lắng hỏi:
Đạo Sĩ làm sao vậy? điểm gì xảy ra cho Thái
Tử lành dữ thế nào hãy nói cho ta rõ.
Đạo
Sĩ nói:
Bẩm Quốc Vương chỉ có lành chứ không có dữ,
Bần Đạo lạy đây là lạy Đức Chí Tôn lâm phàm, Cứu Dân Độ Thế, Đại Từ Đại Bi.
Thương dân như thương con ruột của mình. Bần Đạo khóc đây là khóc tuổi đã già,
không được nghe Chí Tôn thuyết giáo, uổng biết bao vì kém Đức, thiếu nhân duyên
với Đức Chí Tôn nền sanh ra làm người hơi sớm, không được nghe lời dạy của Đức
Chí Tôn. Đạo Sĩ càng nói nước mắt càng chảy.
Theo lời Vương Phi kể, vì Thiên Đế tay cầm
gươm báu, đó không phải là gươm thường mà đó là gươm Thiên Trí Huệ. Có 3 đạo
Hào Quang, đó là ánh sáng Hiến Pháp, Luật Phát, Đạo Pháp. Thiên Tạng, Luật
Tạng, Pháp Tạng vũ trụ, Tam Bảo Chí Tôn. Chỉ cần nghe hiểu một câu trong Tam
Bảo Chí Tôn thời diệt được vô lượng tội ác. Mạng chung liền được siêu sanh về
thượng giới, huống chi được nghe Chí Tôn thuyết giáo thời hạnh phúc biết bao.
Vỉnh viển không còn đọa lạc. Thường làm Vua làm Chúa ở các cõi Trời. Chỉ có Đức
Chí Tôn mỗi lần vung Kiếm Trí Huệ, thời hiện ra vô số Mặt Trời, Mặt Trời Công
Lý, Mặt Trời Hiến Pháp, Mặt Trời Đạo Đức, Mặt Trời Bình Đẳng, Mặt Trời Nhân
Quyền, Mặt Trời Tự Do, Mặt Trời Luật Pháp, Mặt Trời Khoa Học và cho đến hàng
nghìn hàng vạn Mặt Trời cùng chung mục đích là thiêu rụi lòng tà gian tối tăm
che khuất tâm linh con người vô minh tan biến, Cội Nguồn vũ trụ hiện ra, nhân
loại Thăng Hoa tiến tới cảnh Đại Đồng vũ trụ. Những người nghe Thái Tử thuyết
giáo thời coi như siêu thoát Linh Hôn về nơi Cực Lạc. Quốc Vương và Vương Phi
sẽ được lưu danh mãi mãi vì đã sanh ra Đức Chí Tôn.
Kinh
Dương Vương cùng Vương Phi nghe Đạo Sĩ nói như vậy, thời mừng lắm. Ban thưởng
trọng hậu cho Đạo Sĩ, sau đó sắm lễ vật dâng cúng tạ ơn Trời Đất.
PHẦN THƯA HỎI
Hỏi:
Nguồn gốc dân tộc Rồng Tiên phát nguồn từ đâu?
Đáp:
Phát nguồn từ thời Hồng Hoang Bàng Cổ sơ khai, nếu nói gần thời từ đầu tiểu
kiếp thứ 9 đến nay đã trải qua 16 triệu 7 trăm 90 nghìn năm.
Hỏi:
Dân Tộc Rồng Tiên phát nguồn xa hơn nữa thời cách đây bao lâu?
Đáp:
Dân Tộc Rồng Tiên ra đời cách đây hơn 4 tiểu kiếp, nơi dãy núi Long Hoa, cách
75 triệu 600 nghìn năm.
Hỏi:
Dân Tộc Việt Nam thừa hưởng di sản Cội Nguồn quí giá như vậy, sao không biết
phát huy để thừa hưởng mà còn tìm kiếm những Văn Hóa đâu đâu, dẩn đến nô lệ
chiến tranh loạn lạc, nồi da nấu thịt lạc hậu nghèo đói truyền miên.
Đáp:
Theo tôi nghỉ, con cháu Việt Nam có nền văn hóa Tiên Rồng lâu đời tốt đẹp như
vậy, đáng lý ra Con Cháu Việt Nam ra sức giữ gìn phát huy mỗi ngày mỗi tốt đẹp,
nhớ mãi công ơn của Vua Hùng đã truyền lại. Có lẽ vì Văn Hóa Cội Nguồn Tiên
Rồng đã thất truyền, phần thì bị ngoại xâm di hại, những kẻ yếu kém về lòng
trung hiếu nghe theo tà kiến ngoại ban, làm hại đến truyền thống văn hóa Cội
Nguồn dân tộc, mới dẩn đến cái cảnh nồi da nấu thịt, chiến tranh loạn lạc, hạn
chế trình độ dân trí phát triển, dẩn đến lạc hậu nghèo đói triền miên. Chúng ta
đã làm chủ kho tàng kiếm thức vũ trụ là niềm vinh hạnh nhất, không có sự vinh
hạnh nào hơn, cũng không có hạnh phúc nào hơn. Nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội lần
nữa thời chúng ta sẽ mất tất cả. Con đường nô lệ sẽ lặp lại, Địa Ngục trần gian
sẽ bao phủ lấy chúng ta.
Hỏi:
Văn Hóa Cội Nguồn Tiên Rồng có phải là giáo phái Tôn giáo không?
Đáp:
Văn Hóa Cội Nguồn do chính Hùng Vương Quốc Tổ sáng lập là Thiên Đạo vũ trụ, Chủ
Nghĩa Đại Đồng, Hiến Pháp Văn Lang, Quốc Đạo Dân Tộc. Có thể nói Quốc Đạo Tiên
Rồng không phải là giáo phái Tôn Giáo mà là hiện thân Hiến Pháp vũ trụ, Luật
pháp vũ trụ, Công Lý Bình Đẳng vũ trụ.
Hỏi:
Chủ Nghĩa Đại Đồng là gì?
Đáp:
Nếu nói gần thời tất cả nhân loại, điểm xuất phát là từ một nguồn gốc, từ trong
bọc trứng ÂU CƠ sanh ra, mang ý nghĩa Đồng Bào, nói lên nhân loại thế gian năm
màu da đều là anh em một nhà, không phải nói riêng nhân loại trần gian mà ngay
cả nhân loại trên các cõi Trời. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng đều là anh
em một nhà, sinh ra từ một nguồn gốc, sống chung trong một nhà vũ trụ. Còn nói
xa hơn nữa, tất cả Linh Hồn nhân loại. Tiểu Linh Hồn là do Đại Linh Hồn vũ trụ
tạo ra mà thôi ví như Đại Linh Hồn là nước tạo ra Tiểu Linh Hồn bọt nước mà
thôi. Bản thể nước thời có một. Còn bọt nước thời nhiều vô lượng vô biên. Chủ
Nghĩa Đại Đồng nói về bản thể của nước Đại Linh Hồn vũ trụ mà tất cả bọt nước
Tiểu Linh Hồn hướng về Cội Nguồn của mình. Tiến đến cảnh giới giác ngộ tối cao
Chánh Đẳng, Chánh Giác, Đồng trí, Đồng tướng, Đồng tánh. Bọt nước trở về là
Nước, Tiểu Linh Hồn nhập về Bản thể Đại Linh Hồn.
Hỏi:
Thờ Cha Trời Lạc Long Quân. Thờ Địa Mẫu Âu Cơ, Phước Đức giải thoát tội lỗi hơn
Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa không?
Đáp:
Có thể nói thờ hết Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa khắp vũ trụ Tam Thiên Đại
Thiên thế giới, cũng không bằng thờ Đức Cha Trời Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu
Cơ. Vì sao như vậy? Vì Đức Cha Trời, Đức Địa Mẫu là do Tổ Tiên Khai Hóa, Đại
Linh Hồn vũ trụ hiện thân ra hai Đấng tối cao vũ trụ. Phật, Thánh, Tiên, Thần,
Chúa cũng như vận mệnh Non Sông Tổ Quốc của mỗi dân tộc, đều do hai Đấng Cha
Trời Địa Mẫu, chuyển vận bộ máy huyền cơ quyết định. Phải nói chưa có Phật,
Tiên, Thánh, Chúa nào lập lên vũ trụ, Tam Thiên Đại Thiên thế giới mà do Tổ
Tiên Khai Hóa, khai tạo lập nên, rồi hiện thân ra Đức Cha Trời Địa Mẫu, cai
quản gian sang vũ trụ sự nghiệp ấy. Vì vậy thờ Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng
Đức Địa Mẫu Âu Cơ, thời phước Đức không thể nghỉ bàn cho hết được. Điều đáng
nói ở đây thờ Trời phải thành tâm, thời sự linh ứng cùng tột, có thể nói cầu
chi đặng nấy.
*********
Hết
phần 3 chương 5 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 4 chương 5.
CHƯƠNG
5
PHẦN 4
Nước Xích Quỷ vang lừng Thái Tử
Dậy Phương Nam trổ đức, trổ nhân
Hùng Lan Thiên Đức Chí Tôn
Xuống trần lập giáo dựng nên cơ đồ.
Thái
Tử Hùng Lan càng lớn càng khôi ngô tuấn tú, thông minh khác thường, khôn ngoan,
Đạo Đức nhân từ hiếm thấy. Thái Tử tuy tuổi còn nhỏ nhưng tiếng lành đồn xa lan
rộng khắp nơi.
Ngày
qua tháng lại như thoi đưa, mới đó Thái Tử Hùng Lan đã hơn 14 tuổi, một hôm
Thái Tử một mình dạo chơi chốn hoa viên, thời bổng dưng xuất hiện một người xa
lạ, Thái Tử chưa từng gặp bao giờ. Người ấy chấp tay cuối đầu chào Thái Tử.
Thái Tử nhìn người xa lạ, Tiên Phong Đạo Cốt khí chất khác phàm sinh lòng kính
nể.
Thái
Tử chấp tay thi lễ hỏi:
Ngài từ đâu đến, tìm ta có chuyện gì?
Người
xa lạ đáp:
Hạ dân từ Cội Nguồn đến, nghe tiếng Thái Tử
thông minh hơn người, không có câu hỏi nào mà Thái Tử bí trả lời không được,
nên đến đây hỏi Thái Tử vài câu.
Thái
Tử nhìn người xa lạ hỏi:
Cội Nguồn là ở nơi nào?
Người
xa lạ đáp:
Cội Nguồn nếu nói xa thời xa lắm, nếu nói
gần thời ở ngay trước mắt.
Thái
Tử khó hiểu với lối trả lời này, thấy Thái Tử chú tâm suy nghỉ, người xa lạ nói
Thái Tử cho phép hạ dân hỏi đôi lời được không? Thái Tử đáp Ngài cứ hỏi.
Người
xa lạ hỏi:
Thưa Thái Tử ai cũng biết Thái Tử sẽ là vị
Quốc Vương chủ nhân của một đất nước Xích Quỷ giàu có hùng mạnh, Thái Tử nghĩ
gì về nhân loại khi nhân loại vẩn còn nhiều sự khốn khổ, khổ về mê muội, khổ về
chiến tranh, khổ về lạc hậu, khổ về sanh, lão, bệnh, tử. Còn riêng bản thân
Thái Tử nghĩ về mình thế nào? Lối sống vinh quang, cũng như sự chết chia ly rốt
cuộc Thái Tử được những gì khi Thái Tử rời xa chốn trần gian nầy ?
Thái
Tử hết sức ngạc nhiên với lối hỏi này, một câu hỏi không dễ gì trả lời ngay
được ngập ngừng một lát nhưng rồi Thái Tử cũng trả lời. Thái Tử trả lời rằng:
Con người là Động vật thiêng liêng trên cả
muôn loài Cầm Thú. Con người là giai cấp Động vật Chính trị, dòng máu Chính
Nghĩa, tự chủ trực tính của chính mình, vì vậy con người có thể nhận thức được
cuộc sống của chính mình, sống trong hạnh phúc hay sống trong đau khổ. Sanh ra
ở đời ai cũng muốn mình được Thăng Hoa, nhất là sống trong hạnh phúc, sống
trong Độc Lập Tự Do, sống trong Hiến Pháp, Luật Pháp Bình Đẳng, nhân quyền,
quyền sống con người được bảo vệ, Tự Do mưu cầu hạnh phúc thời cuộc sống ý
nghĩa hơn.
Vì thế làm quốc vương chủ nhân của một đất
nước thời phải biết tôn trọng ý nguyện của muôn dân, nhất là biết tôn trong
quyền tự do Mưu Cầu Hạnh Phúc muôn dân, cũng như giải thoát sự mê tín dị đoan
tôn thờ thú cầm, tôn thờ tà kiến. Hạ thấp giá trị con người. Trên đời nầy không
có động vật nào cao hơn con người, linh hơn con người, nên con người không cần
cuối đầu trước muôn loài vạn vật, nhất là muôn loài cầm thú. Cũng như không có loại yêu tinh ác quỉ nào hơn được
con người, khi con người hiểu đạo đức và sống theo đạo đức.
Thế giới cuộc sống nhân loại thời nay chưa
được như vậy nhất là tần lớp nhân dân tần lớp quá lạc hậu, vì họ đang sống
trong chế độ hà khắc, sống dưới cửa Quyền Độc trị, phong kiến Thần Giáo. Không
phải sống trong Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Quyền Nhân Chủ con người sống theo
Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý Bình Đẳng Thiên ý Đạo Đức. Theo đúng nghĩa Quốc
Vương chỉ là người đi đầu, đứng đầu giải quyết mọi vấn đề bất công đem lại sự Công Bằng Bình Đẳng cho cuộc sống xã hội.
Xây dựng một môi trường sống cạnh tranh lành mạnh trong Hiến Pháp, Luật Pháp,
Đạo Pháp ai cũng được trổ tài cống hiến cho xã hội làm giàu cho xã hội. Quốc
Vương chỉ là đầy tớ trung thành, tôn thờ Hiến Pháp, Luật Pháp, bảo vệ Công Lý
Bình Đẳng Chính Nghĩa mà thôi, không có sự Độc Tài Độc Trị không tôn thờ giáo
điều Tà Giáo tà kiến. Nhưng nhân loại hiện nay các Quốc Vương khắp thế giới chỉ
biết theo xu thế theo Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị, không hiểu gì về
Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp lấy dân làm gốc Công Bằng, Bình Đẳng xã hội, chỉ
biết độc tài độc trị muốn làm gì thì làm tàn bạo lạm sát. Không những không
giải thoát được sự khốn khổ của dân, mà còn đẩy dân chúng vào con đường cuồng tín mê tín dị đoan, làm cho xã hội
không đi vào ổn định trật tự, cạnh tranh mất bình đẳng mạnh được yếu thua thắng
là vua thua là giặc, mãi mãi là đói khổ mê muội chiến tranh lạc hậu tàn sát lẫn
nhau. Khi ta làm Quốc Vương ta không giống nhưng những Quốc Vương hiện tại, ta
có hướng đi khác. Biết lột bỏ những gì lạc hậu tiến hóa đổi mới đi lên làm cho
cuộc sống muôn dân đơm hoa kết quả hạnh phúc.
Hiện nay nhân loại Họ đang sống dưới chế độ
phong kiến Thần Giáo, phong kiến Tộc trị, tiến xa hơn nữa là chế độ thể chế Độc
trị, chế độ thể chế độc trị Tôn Thờ Thần Mặt Trời như thời Kinh Dương Vương ta,
một lối sống được coi như là hơn hẳn các Vương Quốc đất nước khác sống có luật
có lệ. Không như các Vương Quốc khác. Nhân loại đang sống trong nô lệ Tộc trị,
nô lệ mê tín dị đoan, nô lệ ngoại ban. Sống trong lao dịch khổ sai, sống trong
áp bức, sống mất tự do, sống trong lo âu sợ hãi, chưa nói đến nghèo đói và bệnh
tật. Sống như vậy thời có ý nghĩa gì và tôi đang tìm hướng đi mới, cho đất nước
Xích Quỷ hướng đi của Chủ Nghĩa Đại Đồng, Chủ Nghĩa Bình Đẳng, Công Bằng Văn
Minh, Chủ Nghĩa của sự tự do tôn trọng quyền con người lấy dân làm gốc ai ai
cũng được tự do hạnh phúc.
Người
khách lạ không mời mà đến càng nghe Thái Tử nói càng mở rộng kiến thức cho mình
như trong màng đêm thấy được ánh sáng mặt trời, những ý tưởng mới lạ chưa bao
giờ được nghe qua nếu không phải là bật Đại giác ngộ thời không thể nào hiểu
nỗi ý tưởng thâm cao ấy của Thái Tử, càng nghe càng khâm phục Thái Tử vô cùng.
Thái
Tử nhìn người xa lạ nói:
Ở đời không ai là không chết, dù cho là Vua hay
dân, giàu hay nghèo, không chết lúc trẻ thời cũng chết về già, cái chết sẽ nhất
định đến với con người sớm hay muộn. Mà chết thời không ai mang theo được gì,
kể cả vua chúa nói gì là dân. Nói tốm lại cuộc sống trần gian chỉ là cuộc sống
giả tạm tu luyện tiến hóa linh hồn mà thôi. Nhưng khi chết đi không ai mang
theo châu báu ngọc ngà mà chỉ mang theo một thứ đó là nghiệp ác hay nghiệp
thiện, để rồi nhận lấy quả báo vui hay khổ, lên thiên đàng hay xuống địa ngục.
Vì quá hiểu rõ như vậy, nên tôi đã chọn cho
mình một hướng đi. Hướng đi của bậc giác ngộ, sống chết đều có nghĩa. Sống có
giá trị là sống vì nhân loại, sống cho nòi giống, sống vì non sông Tổ Quốc. Chết
có ý nghĩa là lối chết bất tử. Chết vinh quang mãi mãi thường còn là chết vì
Chính Nghĩa, chết vì nhân loại. Nếu không tìm cho mình lối chết bất tử như thế,
thời cái chết có ý nghĩa gì. Lối sống vô vị cái chết trống rổng. Nói đến cái
chết thời không ai tránh khỏi, không chết trẻ thời cũng chết về già. Vô thường
sẽ cướp đi sinh mạng của chúng ta, cái chết tự nhiên theo qui luật của Tạo Hóa.
Vì quá hiểu rõ như vậy nên tôi đã chọn cho mình một hướng đi. Chết, sống đều có
ý nghĩa của bật giác ngộ. Làm Quốc Vương hay không làm Quốc Vương cũng thế mà
thôi.
Người
xa lạ càng nghe Thái Tử thuyết giáo càng kinh ngạc trước sự hiểu biết phi phàm
của Thái Tử có thể nói là chưa từng thấy
chưa từng nghe.
Thái
Tử nói:
Nếu nói chết là hết, thời ai ai cũng như
nhau, thiện ác theo đó cũng không còn. Nhưng chết mà không hết chỉ mất đi thể
xác, còn Linh Hồn thời sống mãi, thời sao đây ? Không lẽ mang theo cả gánh hành
lý tội ác xuống địa ngục. Sống trong đày đọa, thời sống đau khổ chớ có ý nghĩa
gì. Sống trong tù đày, sống trong sự tra tấn tàn bạo của Quỷ dữ. Sống trong đói
khác đau đớn, sống trên Đao Búa và Chảo dầu, đó là chưa nói đến sống trong hỏa
ngục. Thời Linh Hồn thống khổ hơn nữa. Nhưng từ xưa tới nay những bậc tu tiên
đắc đạo hiểu rõ chết không phải là hết.
Chết mà không hết chỉ mất đi các xác phàm
tục. Còn Linh Hồn thời sống mãi, thời sống Thiện sống Ác có hai kết quả khác
nhau. Sống Thiện có kết quả tốt, Sống Ác có kết quả xấu. Sống Thiện thời Linh
Hồn được siêu sanh về Trời, hưởng phước báo vô tận muốn gì được nấy. Sống trong
cảnh giới Đại Đồng, các quyền con người được thể hiện đầy đủ như: Quyền tự do
tự tại, quyền mưu cầu hạnh phúc muốn gì được nấy, không có thống trị, cai trị,
sống trong Bình Đẳng Tôn Trọng lẫn nhau, sống trong hạnh phúc. Sống Ác có kết
quả xấu, khi thể xác phàm tục mất, Linh Hồn liền sa đọa vào âm phủ, khi ta muốn
ăn năng hối cải thời cũng đã quá muộn. Vì
vậy tôi lúc nào cũng loại bỏ sai lầm luôn luôn hướng tới Chân Thiện Mỹ. Loại
bỏ quét sạch dơ bẩn rác rưởi tội lỗi trong tâm hồn, phát huy cuộc sống Đạo Đức
vì nhân loại mà hy sinh, vì nhân loại mà cống hiến đời mình. Khi tôi trở thành
Quốc Vương, thời Quyền sống, Quyền Tự Do, Quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi con
người được tôn trọng, được bảo vệ không một ai có quyền xâm phạm, khi họ mưu
cầu tư lợi đúng Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Bằng văn minh là điều trên hết.
Thương yêu dân chính là thương yêu bản thân mình, oán lấy ân mà trả, lòng tha
thứ đối với kẻ phạm tội giáo dục Đạo Đức thường xuyên đối với dân chúng là giảm
bớt hình phạt nhà tù, đó là con đường Chân Chính, cánh cửa Địa Ngục khép lại,
cánh cửa Thiên Đàng mở ra, đưa nhân loại đến Chân Trời hạnh phúc.
Sở dĩ con người luôn luôn lầm lỗi là vì con
người một phần vì trình độ dân trí còn thấp. Một phần chưa gặp được Chánh Giáo
không có Kim chỉ Nam .
Lại thường đối mặt với bao cuộc sống gian trá đầy cạm bẫy, đầy chông gai. Dần
dần con người trở nên tiêu cực, chỉ biết nghĩ cho mình còn Thiên Hạ thời sao
cũng mặc, không mấy quan tâm. Đâu đó cũng là một sự sai lầm trong cuộc sống.
Thật ra con người khó sống riêng lẻ được mà phải sống chung cùng nhau, chung
gánh vác xã hội. Gánh trách nhiệm bảo tồn cuộc sống cộng đồng. Mình sống vì
người, người sống vì mình. Tất cả từ Vua cho tới dân ai ai cũng sống gắng bó
cùng nhau, sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Đức đó mới là cuộc sống có trình
độ dân trí cao. Lối sống lấy dân làm gốc Dân Chủ Công Bằng văn minh. Muốn có
một cuộc sống bình yên hạnh phúc mà xung quanh ta với bao kẻ thù chống phá, bao
kẻ rình rập trộm cướp, gian ác thời cuộc sống bình yên hạnh phúc sao được.
Vậy mới biết người nông dân ngủ yên không lo
đói là kho lúa thóc vẫn còn đầy. Làm Quốc Vương mà ngủ yên trên cung vàng, Điện
Ngọc là nhờ dân làm lành hướng Thiện. Xung quanh Quốc Vương là các bật trung
Thần, hết lòng vì Quốc Vương. Hết lòng chăm lo cho dân, cho nước.
Muốn có một gia đình hạnh phúc thật sự, thời
làm Cha Mẹ phải có Đạo Nhơn Luân Hiếu Nghĩa, để cho con cái noi theo.
Muốn có một Quốc Gia yên ổn Thái Bình Thịnh
Trị, thời phải biết dạy dân sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Đức hướng về
Cội Nguồn. Dân tự nuôi dân bằng vật chất, còn nhà nước nuôi dân bằng truyền
thống văn hóa Chính Nghĩa, nuôi lớn Tinh Thần Dân Tộc, nuôi lớn trình độ dân
trí, để dân tự làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Đức cũng như truyền thống Văn
Hóa Cội Nguồn. Dân làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Đức làm chủ Văn Hóa Cội
Nguồn, thời Quốc Vương được ngủ yên, sống yên không có một đất nào xâm lược
nổi, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Một vị Quốc Vương anh minh như thế, thời còn
lo gì không có Độc Lập Tự Do, dân giàu nước mạnh, nhất định Thiên Đàng Cực Lạc
sẽ ở ngay chốn nhân gian.
Còn làm vị Quốc Vương chỉ biết lo cũng cố tu
bổ cho quyền lực của mình, vây cánh của mình, mới suy nghĩ cho là trúng nhưng
đó là một sự sai lầm lớn. Một Quốc Gia hùng mạnh phải nói toàn dân tộc nước đó
phải nhận thức được, cái chung phải đứng trên cái riêng. Non Sông Tổ Quốc,
truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn coi trọng hơn bản thân, tư nhân của mình.
Cái chung ở đây không phải là cái chung của
Thần Giáo bè phái giáo phái thời phong kiến Thần Giáo hiện nay, phong kiến Địa
Chủ, phong kiến tiến bộ Chế Độ. Nói chung là ở các thời phong kiến. Đứng đầu là
Đế, Vương, Vua, Chúa của các Họ Tộc. Phần nhiều là do tranh giành quyền lực,
được xưng Vua, thua là giặc. Cái chung ở đây là cái chung bảo vệ quyền con
người ai cũng như ai, chung nhau gìn giử Tổ Quốc, chung nhau phát triển xã hội.
Những người có công lớn được sự tín nhiệm muôn dân tôn phong suy Tôn lên, tất
cả muôn dân phải sống dưới cái chung, trong đó có cái riêng của chính mình.
Thống trị Độc Tài Độc Trị của Đế, Vương, Vua, thời nay thời cuộc sống không bao
giờ thoát khổ được, vì sống dưới chế độ Độc Trị hà khắc khốn khổ.
Còn cái chung ở đây là của chung toàn dân
tộc. Chung nhà nước, chung Hiến Pháp, chung Luật Pháp, chung Đạo Pháp công bằng
bình đẳng. Không có chế Độ Độc Tài cai
trị, mà toàn dân tộc sống chung nhau trong Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Quốc
Đạo Văn Hóa truyền thống Chính Nghĩa Tinh Hoa xã hội con người tiến bộ. Non
Sông Tổ Quốc, Hiến Pháp, Luật Pháp, Văn Hóa truyền thống Dân Tộc không của
riêng ai, mà của toàn dân tộc. Toàn dân là Chủ. Vì thế một đất nước hùng mạnh
là một đất nước toàn dân là Chủ, chung nhau bảo vệ Tổ Quốc, chung nhau bảo vệ
Hiến Pháp. Luật Pháp, truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn. Một đất nước có trình độ
dân trí cao văn minh như vậy. Thời người đứng đầu nhà nước đó phải là người
gương mẫu về mọi mặt, do dân suy tôn tính nhiệm mà ra. Thi hành Hiến Pháp, Luật
Pháp, Công Lý xã hội.
Dưới các triều Đại phong kiến độc tài độc
trị. Dù là phong kiến Địa Chủ, phong kiến Thần Giáo, phong kiến Chế Độ, thời
nào cũng tìm ẩn tham quan quá lớn. Thi nhau mà vơ mà vét làm hại Non Sông Tổ
Quốc, làm hại dân tộc, nội bộ chiến tranh truyền miên không dứt. Nồi da nấu
thịt thê thảm vô cùng, thời trước thi nhau loạn thời này cũng thế. Văn Hóa đồi
trị thi nhau mà ra đời làm hại đến sự phát triển xã hội. Đưa đẩy dân tộc vào
cảnh tối tăm khó mà vươn lên một tầm cao mới.
Nói tốm lại cái chung đưa dân tộc đi lên
tiến tới dân giàu nước mạnh không phải là cái chung của bè phái, đạo phái, giáo
phái, độc tài độc trị nào. Mà là cái chung sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo
Pháp minh chính, công bằng bình đẳng xã hội.
Vậy mới biết cành lá khô héo là do gốc mục
nát hỏng, sông cạn kiệt là do nguồn cạn kiệt. Nhìn một Dân Tộc hùng mạnh, cành
lá sum sê, thời cũng biết Dân Tộc đó có gốc gác vững vàng, Hiến Pháp, Luật Pháp,
Đạo Pháp minh chính, không phải tự nhiên mà có càng không thể dựa trên thể chế
độc tài độc trị mà ra. Mà là Tinh Hoa Truyền thống được chiết lọc nguyện vọng
chân chính của con người. Không phải dựa trên cửa quyền truyền thống của Chế Độ
độc tài độc trị mà có. Mà Là Tinh mật ngọt đồng nhất nguyện vọng của con người,
nguyện vọng ấy ví như mật ngọt của muôn loài hoa không có sự khác biệt nhau,
càng không có sự chống bán nhau. Ai cũng thấy quyền lợi cái chung ấy chính là
quyền lợi của chính mình. tinh Hoa Hiến Pháp. Tinh Hoa Luật Pháp. Tinh Hoa Đạo
Pháp là cái chung mơ ước của mỗi một con người, bảo vệ Hiến Pháp, Luật Pháp,
Đạo Pháp cái chung ấy, là bảo vệ sự sống sức mạnh phát triển của toàn dân tộc.
Mà mỗi dân tộc điều chung mơ ước. Đó là quyền con người, những quyền căn bản
của cuộc sống. Những Quyền mà Tạo Hóa đã ban cho, những quyền bất khả xâm phạm.
Tinh Hoa Hiến Pháp. Tinh Hoa Luật Pháp. Tinh Hoa Đạo Pháp trở thành Truyền
thống Tinh Hoa anh linh dân tộc Văn Minh có cả sức mạnh Hồn Thiên Dân Tộc, khí
Thiên Sông Núi. Hàng nghìn nghìn năm, cho đến hàng triệu năm. Dòng lịch sử
truyền thống tuôn trào mãi làm cho tinh thần Dân Tộc luôn tràng trề niềm khiêu
hãnh đầy sức sống. Hết thế hệ này đến thế hệ khác liên miên bất tận không dứt.
Nhìn một Dân Tộc luôn luôn bị nô lệ, cành lá
héo tàn, thời cũng biết Dân Tộc đó gốc gác có vấn đề. Hiến Pháp, Luật Phát,
Văn Hóa truyền thống, không phải là Tinh Hoa Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Văn
Hóa truyền thống anh linh lâu đời. Mà chỉ là những giáo điều Chính Trị, thể chế
trói chặt quyền con người thống Trị của Chế Độ đó mà thôi. Chính những đất nước
như thế tự mất đi cái gốc Đồ Sộ nền tản lâu đời đoàn kết của nó mà cũng mất
luôn sức mạnh của Hồn Thiên Dân Tộc. Khí Thiên sông núi khó mà bền vững Độc Lập
lâu dài. Vì chính độc tài độc trị nó tự hủy diệt lấy nó. Để rồi sanh ra chế độ
độc tài độc trị khác. Diệt Sói rồi trở thành Sói. Cứ lẫn quẩn mãi trong cảnh
giới thắng là vua thua là giặc xem đi xét lại Giặc với Vua cũng cùng một thứ.
Một Dân Tộc có tương lai rộng mở là một dân
tộc có tầm nhìn xa rộng lớn, có kiến thức sâu rộng bỏ những tập tục lạc hậu, gốp
nhặt Tinh Hoa nhân loại. Làm hành trang cho những bước tiến của mình. Một đất
nước dân giàu nước mạnh, không có con đường nào khác hơn là Hiến Pháp, Luật Pháp,
Đạo Pháp là vua, trở thành nhà nước Pháp Quyền, thật sự của dân, do dân, vì
dân. vì dân. Nói chung một cách dễ hiểu là Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Tam Quyền Phân Lập, Tự Kiểm Soát Nhau, Bảo
Vệ Nhau, Tồn Tại Mãi Mãi, không già không trẻ cứ thế mà đi vào cuộc sống. Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp của dân, bảo vệ
dân, để cho dân tự do vươn lên phát triển. Quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc phát triển
vươn lên một cách mạnh mẽ. Nhà nước ủng hộ bảo vệ, làm trọng tài cho cuộc phát
triển về mọi mặt, mọi hoạt động của toàn dân đi lên của xã hội tiến tới dân
giàu nước mạnh.
Một đất nước có nền Độc Lập lâu đời. Thời
đất nước đó có nền Văn Hóa Quốc Đạo Dân
Tộc, nền tản vững chắc Độc Lập lâu dài. Một đất nước có nền Văn Hóa Quốc Đạo thời
đất nước đó nhất định độc lập bình yên lâu dài. Quốc Đạo không phải là dựa vào một giáo đạo nào lấy đó làm Quốc Đạo. MÀ
LÀ ĐẠO PHÁP KHAI DỰNG LÊN ĐẤT NƯỚC, KHAI DỰNG LÊN DÂN TỘC không được nhầm lẫn
Tôn Giáo, Đạo Giáo, Thần Giáo là nền Quốc Đạo. Mà phải là Đạo Pháp khai
dựng lên dân tộc, khai dựng lên non sông Tổ Quốc. Quốc Đạo luôn đi đôi với
truyền thống anh linh dân tộc luôn luôn đem truyền thống tốt đẹp ấy truyền dạy
cho con cháu, thắp sáng mãi tinh thần yêu nước, yêu truyền thống tốt đẹp của
mình.
Cha Mẹ có Đạo là tấm gương sáng cho con cái
noi theo. Vương, Quan có Đạo thời trị dân không cần động đến gươm, đao, giáo,
mác mà quân dân vẫn tuân theo răm rắp. Vậy mới biết Văn Hóa truyền thống Đạo
pháp dân tộc là phép mầu hữu hiệu, uốn nén dân chúng theo đúng kim chỉ nam,
không cần đến bạo lực còn trên cả đòn roi gươm, đao, giáo, mác tầm thường.
Một đất nước có Nền Văn Hiến Quốc Đạo. Vương
với Dân cùng hội cùng thuyền, xã hội càng thêm ấm no hạnh phúc độc lập lâu dài.
Người
khách lạ càng nghe Thái Tử lập luận càng sững sốt vô cùng mới lạ chưa nghe thấy
bao giờ liền chấp tay thưa hỏi:
Thưa Thái Tử, Văn Hóa Quốc Đạo là giống gì
mà nhiệm mầu uy lực như vậy?
Thái
Tử đáp:
Văn Hóa Quốc Đạo không là giống gì cả, mà
chỉ là con đường rộng lớn đầy hoa thơm quả ngọt, không chông gai con đường đoàn
kết Đại Đồng Bình Đẳng. Con đường yêu nước thương dân hay nói một cách dễ hiểu
Văn Hóa Quốc Đạo là con đường Chính Nghĩa, con đường hòa hợp các Dân Tộc. Con
đường Đạo Đức làm cho bản thân, gia đình, xã hội, đất nước Tổ Quốc càng ngày
càng xuân. Nhân loại đi theo Văn Hóa Quốc Đạo là đi đến chân trời hạnh phúc.
Nhưng Đạo thời có hai, Tiểu Đạo và Đại Đạo.
Tiểu Đạo là con đường hẹp và ngắn lại nhiều
chông gai, đó là con đường đấu tranh giai cấp, con đường mạnh được yếu thua
nhiều chông gai, con đường Phi Chính Trị, Phi Chính Nghĩa con đường tranh bá
xưng hùng mạnh được yếu thua, thắng là vua thua cho là giặc, đổi ngôi, đổi chủ
như thay áo, con đường hận thù chồng chất.
Đại Đạo là con đường lớn con đường dựa trên
căn bản quyền con người, Thấp thời Nhân Quyền cao thời Thiên Quyền con đường
tối cao của cái chung, trong đó có cái riêng của mỗi một con người Con đường
Đại Đạo xuyên suốt lịch sử quá khứ vị lai. Cũng như xuyê từ Địa Ngục cho tới
tận Thiên Đàng. Con đường Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Bình Đẳng. Con đường
làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ khoa học, làm chủ Non Sông Tổ Quốc,
làm chủ vũ trụ, làm chủ Thiên Đàng Cực Lạc. Ai đi trên con đường Đại Đạo, mỗi
bước chân là mỗi bước hạnh phúc. Vì con đường Đại Đạo là con đường từ bi bác ái
nhân nghĩa, con đường giải thoát tội lỗi, giải thoát nô lệ, giải thoát sự ngu
muội của chính bản thân mình. Trở thành người thông thái Phật, Thánh, Tiên,
Thần, Chúa sống tự do và làm chủ vũ trụ, làm chủ Thiên Đàng Cực Lạc.
Người
khách lạ hỏi:
Thưa Thái Tử, Đạo thời có hai, Tà Đạo và
Chánh Đạo làm sao ta phân biệt nhận biết?
Thái
Tử đáp:
Đạo là con đường đi, đường hướng, đường lối
nhưng Tà Đạo và Chánh Đạo thời khác nhau rất xa. Thiện ác hai nẻo như Thiên
Đàng và Địa Ngục.
Thái
Tử nói:
Con đường nào dẫn Thiên Hạ nhân loại đến
chiến tranh, tranh giành quyền lực, chiến tranh xâm lược, chiến tranh bè phái,
giáo phái đẩm máu nhất là đẩm máu nồi da nấu thịt, tệ hại hơn nữa là đẩm máu
trong Họ Tộc. Trong tình thương ruột thịt, giết hại người thân lập công bè phái
giáo phái cũng chỉ vì phục vụ cho tranh bá quyền lực, lên quan lên chức. Tà Đạo
là con đường tranh bá quyền lực đấu tranh giai cấp triệt hạ thôn tính lẫn nhau
dẫn dắc nhân loại đi trên con đường gươm đao giáo mác chiến tranh, tranh giành được
là Vua thua là giặc. Thật ra giặc và Vua chẳng khác chi nhau, tham lam tật xấu,
gian xảo ích kỷ. chỉ biết quyền lực Danh và Lợi dẫn đến tàn sát lẫn nhau, kẻ
thắng thống trị, người thua bị trị, nô lệ, tù đày hoặc giết đi.
Đã đi trên con đường đấu tranh giai cấp gặp
phải những tay hôn Quân tàn bạo. Bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất hiếu thời
không nói cũng biết cuộc sống muôn dân vô cùng thê thảm. Xem thường luật nhân
quả. Cống Cao Ngạo Mạng. Liêm Sỉ chẳng cần, thêu dệt lên bao tà thuyết hoang
tưởng, không thực tế. Tay cứ vấy máu mà miệng
hô hòa bình, tham lam vơ vét của công, lấy sạch của dân, ngoài miệng thời hô lo
cho dân cho nước. Nhà tù cứ nới rộng, Đao Búa thêm mài bén ngót tàn bạo hết ngõ
nói. Oán thêm oán, hận thêm hận, thù chồng thù như núi như non.
Tà Đạo là con đường dẫn đến mọi thói hư tật
xấu. Sung sướng chỉ đem lại cho một nhóm người, còn toàn bộ là khốn khổ. Con
đường tươi sáng đâu không thấy mà thấy trước mắt chỉ là vực thẳm tối đen, đấu
tranh tàn sát nhau. Tìm hạnh phúc, hạnh phúc đâu không thấy mà thấy cảnh Địa
Ngục nhà tù bày ngay trước mắt.
Còn Chánh Đạo là con đường rộng lớn Thiên
Quyền Nhân Chủ cao hơn Nhân Quyên Dân Chủ mấy bậc con đường hiện thân Hiến
Pháp, Luật Pháp,Đạo Pháp, Tự Do Công Bằng Bình Đẳng bỏ Ác hành Thiện. Con đường
Chân Thiện Mỹ dẫn tới Thái Bình An Lạc.
Con đường dẫn dắc nhân loại tiến tới dân giàu nước mạnh không có sự hận thù mà
chỉ có đoàn kết yêu thương. Chánh Đạo là con đường vì dân vì nước vì Cội Nguồn.
Chánh Đạo là hiện thân của Hiến Pháp Chính Nghĩa, Luật Pháp Chính Nghĩa, Công
Lý Chính Nghĩa, Đạo Đức Chính Nghĩa. Chánh Đạo là con đường rộng lớn, còn đường
Đại Đồng Bình Đẳng (Chủ Nghĩa Đại Đồng
chủ nghĩa Thiên Quyền, Nhân Quyền xã hội). Không phải giáo phái, bè phái,
tôn giáo không sống theo giáo điều mà chỉ sống theo Hiến Pháp Chân Chính. Luật
Pháp Chân Chính. Đạo Pháp chân chính Công bằng văn minh. Chánh Đạo là con đường
không đi trên sự đau khổ của nhân loại, mà đi trên con đường cứu khổ ban vui
nhân loại. Con đường Chánh Đạo là con đường nới rộng vòng tay đoàn kết, lá lành
đùm bọc lá rách. Người giàu sang sẽ bớt cho người nghèo, người mạnh thương
người tàn tật. Chánh Đạo chính là Chính Nghĩa, mà Chính Nghĩa chính là lòng
nhân Đạo của con người.
-
Con đường Tà Đạo là phục vụ cho lòng Tà Đạo Bất Chính.
-
Con đường Chánh Đạo là con đường đoàn kết, hòa hợp dân tộc ung đúc lên đạo đức
Chính Nghĩa.
-
Con đường Tà Đạo chủ ý tranh quyền đoạt
lợi.
-
Con đường Chánh Đạo chủ thuyết cứu khổ tôn trọng lẫn nhau.
Chủ quyền của Tà Đạo là thống trị, cửa quyền
ác bá, chiến tranh và hận thù, máu trả bằng máu, thịt đè lên thịt, bóc lột dã
man.
Chủ ý của Chánh Đạo là vì người không vì
mình, nhân loại là anh em, không phân biệt màu da chủng tộc, tất cả đều là anh
em một nhà thương yêu đùm bọc lẫn nhau lá lành đùm lá rách .
Chủ thuyết của Tà Giáo Tà Đạo là Bè Phái,
Giáo Phái. Đối lập nhau và luôn luôn mâu thuẩn với nhau. Thậm chí còn đã kích
nhau.
Chủ thuyết của Chánh Đạo là chủ nghĩa Đại
Đồng Công Bằng bình đẳng. Trên con đường Thánh Thiện Tôn Trọng Quyền con người
ý tưởng khoa học siêu phàm. Sống thực tế loại bỏ những gì lạc hậu tiến tới văn
minh tinh thần lẫn vật chất, làm chủ chính nghĩa. Lấp con đường Địa Ngục, mở
rộng cửa Trời
Vì vậy con đường Chánh Đạo rất khó đi cho
những người tâm còn nhỏ hẹp. Rất dễ đi với những con người có Đức. Tấm lòng
rộng mở. Sống vì người hơn là vì mình.
Tà Đạo là con đường hẹp, đầy dẫy chông gai.
Con đường dẫn tới chiến tranh, dẫn tới địa ngục, âm phủ. Mỗi bước chân đi trên
con đường Tà Đạo là mỗi bước chân lo âu sợ hãi. Cuối cùng cũng dẫn đến cảnh
trầm luân đọa lạc.
Tà Đạo và Chánh Đạo, hai con đường khác nhau
quá rõ, trắng với đen khó mà lẫn lộn nhau, đối với người sáng tâm sáng mắt. Còn
tâm u minh người mù thời khó mà nhận ra.
Nghe
Thái Tử lập luận giảng thuyết Đạo Pháp kỳ lạ. Người khách lạ hết kinh ngạc này
đến kinh ngạc khác. Chính Ta ở nơi Hạ Thiên Vũ Trụ cũng không nghe thấy đạo lý
như thế nầy huống chi là chốn nhân gian. Người xa lạ nghĩ ý tưởng Thái Tử vô cùng xa lạ. Có thể nói sự
hiểu biết của Thái Tử, theo trình độ dân trí hiện nay thời khó mà hiểu được một
lời của Thái Tử nói chi đến nhiều lời Ngay cả như ta đây là Thiên Thần trí tuệ
mà nghe càng lạ lẩm, cao xa khó hiểu huống chi là người phạm tục ý thức lạc
hậu, mê tín dị đoan sâu dày.
Thì
ra đây người khách lạ không mời mà đến chính là Thiên Thần Trí Tuệ ở trên sáu
tần Trời Cõi Dục, xuống chốn nhân gian thử Tài năng trí huệ Thái Tử, cũng như
sự hiểu biết của Thái Tử. Thiên Thần Trí Huệ ở cõi Trời hạ giới hàng nghìn
nghìn năm, chưa nghe thấy ai giảng thuyết thế này. Không lẽ đây là Vương Đạo mà
Đức Cha Trời đã dạy cho Đức Chí Tôn.
Thiên
Thần Trí Huệ hỏi:
Thưa Thái Tử. Hiện nay chốn nhân gian,
phương Đông Thần Giáo thịnh hành như thờ lửa, Thần lửa, thờ Thần mặt trời, thờ
Thần núi, Thần sông, Thần biển, Thần mưa, Thần sấm sét v.v… Phương Tây thời
thịnh hành phù thủy, thờ ma thuật, quỉ thuật, yêu thuật. Đại đa số các nước
sống theo giáo điều của Thần giáo, điều lệ của Phù Thủy. Không thấy đất nước
nào sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp cả. Thái Tử tìm ở đâu ra Đại Đạo,
Thiên Đạo, Cội Nguồn, lập lên Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, thay cho giáo điều
và điều lệ đã ăn sâu vào con người hàng nghìn nghìn năm ?
Thái
Tử đáp:
Đây là một điều rất khó nhưng không phải vì
sự khó ấy mà tôi sẽ bỏ qua. Thiên Đạo Cội Nguồn vũ trụ sẽ không ở đâu xa, có
thể ở ngay trước mắt. Xét đi xét lại tất cả là vũ trụ, không có chổ nào là
không phải vũ trụ. Thậm chí Linh Hồn Thể Xác chúng ta cũng là thành viên vũ
trụ. Chẳng hạn như Nước và bọt Nước. Gốc của các bọt Nước là Nước, tuy hai mà
một, bọt Nước cũng chính là Nước, tuy một mà hai vì bọt Nước có hình dạng còn
Nước thời không có hình dạng nhất định, ở trong ống thời hình ống, ở trong lu
thời hình lu, ở trong không gian thời hình không gian.
Có thể nói muốn tìm thấy Đại Linh Hồn vũ trụ
ví như bọt Nước tìm về Cội Nước. Muốn làm được như vậy thời phải làm chủ cho
được Tiểu Linh Hồn bọt Nước của chính mình hướng về Cội Nguồn, hội nhập vào Cội
Nguồn Đại Linh Hồn vũ trụ, ví như bọt nước trở lại là nước. Thời sẽ tìm ra Đại
Đạo Cội Nguồn vũ trụ, lập lên Hiến Pháp. Luật Pháp, Đạo Pháp khai lập lên đất
nước mới Văn Hóa Cội Nguồn sẽ trở thành nền Quốc Đạo dân tộc. Làm lợi ích cho
toàn nhân loại.
Thiên
Thần trí tuệ mừng rở vô cùng như ngộ được điều gì, liền vái lạy Thái Tử nói:
Thái Tử là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống
trần mới có trí huệ vô tận thâm thâm vi diệu như vậy. Đấng Cứu Thế Đã Ra Đời
hồng phúc thay cho nhân loại nhân gian, nói xong Thiên Thần biến mất.
Sự
xuất hiện và biến mất của Thiên Thần Trí Huệ đã đánh thức Thái Tử một điều hết
sức quan trọng mà Thái Tử cần phải nắm bắt. Đó là Thần Thông, có Đức có Trí
nhưng thiếu đi Thần Thông thời khó mà vượt qua bao chướng ngại, trên con đường
tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn. Và thật vậy Thiên Đạo Cội Nguồn Tiên Rồng là Đại Đạo
vũ trụ, Tam Bảo Chí Tôn.
1. Pháp Tạng
2. Hiến Tạng
3 Luật Tạng
4 Thiên Tạng
5 Mật Tạng
Thời
con đường Công lý Bình Đẳng Văn Hóa Cội Nguồn, Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp vũ trụ ra đời. Văn Hóa Chính Nghĩa
tối cao vũ trụ, con đường Đại Đạo xuyên qua tư tưởng, xuyên qua không gian,
thời gian, xuyên qua quá khứ vị lai, con đường làm chủ tất cả. Muốn tìm ra Văn
Hóa Cội Nguồn ngoài Hùng Bi Trí Đức còn phải đạt đến cảnh giới tối cao, Thần
Thông pháp thuật, Thần Thông trí huệ, thời mới tìm ra Đại Đạo Văn Hóa Cội
Nguồn. Thái Tử làm sao để tìm ra Đại Đạo vũ trụ Chủ Nghĩa Đại Đồng Văn Hóa Cội
Nguồn. Chúng ta hãy đọc tiếp những đoạn Kinh văn sau.
*********
Hết
phần 4 chương 5 mời xem tiếp phần 5 chương 5 Long Hoa Mật Tạng. Những gì bí mật
nơi vũ trụ lần lần hé lộ, phải nói là bộ kinh quý hiếm không gì quý bằng. Những
ai có Bộ Kinh nầy trong tay hàng ngày đọc xem nghiên cứu, thời phước đức trí
huệ của những người nầy không sao luận bàn cho hết được, và tương lai của những
người nầy cũng không sao lường hết được. Nếu ai gặp được những người nầy nên
cung kính cúng dường, tán thán ca ngợi. Thời muôn vạn kiếp sau không những đứng
đầu đại chúng cũng như giàu sang tột bực.
Long Hoa Mật Tạng tột siêu kỳ
Cúng dường in ấn truyền bá đi
Phước lành muôn ức không thể đếm
Gia đình con cái rạng tông ti
Về trời hưởng phước mãi thường khi
Chỉ cầm một niệm tin ca ngợi
Cũng đặng về trời chẳng khó chi.
CHƯƠNG 5
PHẦN 5
CHÌA KHÓA VẠN NĂNG.
Thái
Tử nghĩ không phải chỉ làm Quốc Vương ngự trên Ngai Vàng Điện Ngọc mới là uy
quyền cao cả. Đó chỉ là uy quyền cao cả tạm thời cuộc đời ngắn ngủi sống trên
vật chất cung vàng điện ngọc chớp mắt đã qua, mọi chuyện rồi trở về con số
không, cái không trống rỗng chẳng có ý nghĩa gì. Chỉ có sự nghiệp Đạo Đức sự
nghiệp tận độ nhân loại cứu linh hồn nhân loại về trời. Mới là sự nghiệp vĩ Đại
vĩnh cửu, sự nghiệp bất tử không bao giờ mất mãi mãi trường tồn. Chỉ có tìm ra
Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đạo vũ trụ, đúc kết Tinh Hoa Chân Lý, vạch ra đường hướng
đúng đắn chân thiện, để cho nhân loại Thiên Hạ Đồng Bào đi theo làm theo tìm
đến cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc ở các cõi Trời Thiên Đàng Cực Lạc. Giải
thoát sanh tử đi đến cảnh bất tử. Thời đó mới là việc làm cao cả, sự nghiệp vĩ
đại, không có một sự nghiệp nào sánh bằng. Ngay cả những Quốc Vương giàu có
nhất thế giới, hùng mạnh nhất thế giới cũng không sánh kịp bằng mảnh lông sợi
tóc của sự nghiệp Đạo Đức Văn Hóa Cội Nguồn.
Thái
Tử phát họa ý tưởng rồi đưa đến một kết luận quyết định. Quyết tìm ra Đại Đạo
mở đường dìu dắt nhân loại, đưa xã hội nhân loại tiến lên, công bằng văn minh,
văn minh vật chất lẫn văn minh tinh thần. Tất cả sống theo Hiến Pháp, Luật
Pháp, Đạo Pháp Công Lý xã hội, ai cũng được sống trong Công Bằng Bình Đẳng tiến
tới dân giàu nước mạnh, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ Hiến Pháp,
Luật Pháp, Đạo Pháp, làm chủ non sông Tổ Quốc cho đến làm chủ vũ trụ.
Khi
con người mới sanh ra, thời Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho con người nhiều thứ
quyền và làm chủ tất cả. Trong các thứ quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho mỗi
con người trong đó có Quyền Sống, Quyền Độc Lập, Quyền Tự Do, Quyền Bình Đẳng,
Quyền mưu cầu hạnh phúc, nói chung là Quyền con người (Nhân Quyền). Con người là chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công
Lý vũ trụ, tất cả nhân loại sống trong xã hội công bằng văn minh. Cạnh tranh
lành mạnh tiến hóa đi lên mở ra Xã hội Thiên Đàng Cực Lạc Quốc ngay nơi trần
thế. Con người là tiểu thiên vũ trụ. Tổ Tiên khai lập con người. Thời Tổ Tiên
Khai Hóa cũng đã ban cho con người kho tàng trí huệ. Cũng như chiếc chìa khóa
vạn năng ấy để mở kho tàn trí huệ, chiếc chìa khóa vạn năng ấy không đâu xa đó
là chìa khóa Tiểu Linh Hồn chúng ta vậy. Chúng ta sẽ dùng nó mở cánh cửa Cội
Nguồn vũ trụ, tiến tới làm chủ tất cả, cũng như các Quyền mà Tổ Tiên đã ban cho
mỗi con người. Để mở tung cánh cửa Cội
Nguồn vũ trụ làm chủ kho tàng kiến thức vũ trụ. Thái Tử suy gẩm lần lần tháo gở
mắt gút rắc rối ngăn cản của vô thường và vô minh. Lần tiến tới mục đích cuối
cùng là Đại giác ngộ Chánh Đẳng, Chánh giác.
Thái
Tử là bậc Đại thông minh, nếu không nắm bắt rõ Linh Hồn của chính mình, thời
không bao giờ tìm thấy Đại Linh Hồn vũ trụ, Đại Linh Hồn Khai Hóa Tổ Tiên. Bản
thể Linh giác tối cao vũ trụ, nếu chỉ hướng ngoại tìm kiếm trong thế giới vật
chất dù cho tìm khắp trong vật chất, khắp thế giới vũ trụ cũng không tìm thấy
bản thể Linh giác tối cao của vũ trụ, kho tàng tri thức của tâm Linh. Muốn tìm
thấy Đại Linh Hồn vũ trụ, trước hết phải tìm thấy nắm bắt Tiểu Linh Hồn của
chính mình và nó tự làm chủ lấy nó và dùng nó để mở ra cánh cửa Cội Nguồn vũ
trụ và chỉ có bọt Nước mới tìm ra bản thể của Nước.
Lại
nữa Linh Hồn là vật thể siêu Linh khó mà nắm bắt, khó mà hàng phục, tìm tàng ẩn
chứa muôn vạn Chủng Tánh, của muôn cảnh giới, từ hiện tại đến quá khứ. Cảnh
giới sắc từ Linh giác sắc không hiện ra. Cũng giống như cảnh giới của Điện hiện
lên màng ảnh ti vi, thật ra Điện vốn không, không có cảnh giới đó. Nếu chúng ta
tự hiểu Linh Hồn của chúng ta. Thời chúng ta mới làm chủ chiếc chìa khóa vạn
năng vũ trụ. Khám phá bí mật vũ trụ, tiến tới làm chủ vũ trụ.
1: Tánh không tánh: Đó là thật tánh Linh Hồn chúng ta, từ tánh không này
Linh Hồn của chúng ta tạo khởi ra vô lượng tánh khác nhau như tánh tham, tánh
sân, tánh si, tánh cống cao ngạo mạng, tánh nghi, tánh bảo thủ cho đến tánh Thiện
tánh ác, nói chung là 8 muôn 4 nghìn tánh, nhưng tất cả chỉ là giả tánh, do
tánh không tánh. Chân Tánh khởi tưởng tạo ra mà thôi. Như vậy nắm bắt thật tánh
Linh Hồn, tánh không tánh. Làm chủ Chân Tánh của chính mình nó tự làm chủ lấy
nó, trở thành tánh tự nhiên, tự nhiên tánh.
2: Tướng không tướng: Đó là thật tướng Linh Hồn chúng ta.
3: Sắc không sắc: Đó mới là thật sắc Linh Hồn chúng ta. Từ tướng không
tướng: sắc không sắc này, khởi tưởng phân biệt hiện ra vô lượng cảnh giới trong
Linh Hồn chúng ta, cảnh giới hửu sắc. Ví dụ như cảnh giới xã hội, cảnh giới
chiến tranh, cảnh giới hòa bình, cảnh giới thiện, cảnh giới ác v.v... Như vậy
nắm bắt thật tướng, thật sắc của Linh Hồn chúng ta là tự nó hiểu nó, không cảnh
tướng là tướng thật tướng của mình, không sắc là thật sắc của mình. Tự không
làm chủ lấy không, vắng lặng tự nhiên, tất cả cảnh giới trong tâm đều không
thật, do tâm thức Linh Hồn khởi tướng tạo ra mà thôi.
4: Ý không ý: Đó mới là thật ý của Linh Hồn, trí không trí đó mới
là thật trí của Linh Hồn, tự nó làm chủ ý không trí của nó, đi vào ý trí tự
nhiên. Cảnh giới tối cao của người tu trên con đường Đại Giác Đại Ngộ, bước
thẳng tới cánh cửa Cội Nguồn, bước vào kho tàng Như Lai Tạng tánh vũ trụ. Kho
tàng tri thức vũ trụ.
5: Nhưng cánh cửa Cội Nguồn vũ trụ ấy không dễ gì mở ra được, phải phát
Đại Nguyện rộng lớn mới mở nổi Như Đại Nguyện Di Đà, Quang Âm, Thích Ca, Địa
Tạng v.v…
*********
Hết chương 5 phần 5 mời xem
tiếp phần 1 chương 6 Long Hoa Mật Tạng Kinh, tối cao kinh giáo thượng thừa vũ
trụ.
CHƯƠNG 6
PHẦN 1
SỰ THÔNG MINH KỲ LẠ CỦA THÁI TỬ
Thái
Tử tuy còn rất trẻ nhưng thông minh kỳ lạ, dù cho Thần Thánh cũng không theo
kịp. Thái Tử nghĩ nếu ta nắm bắt và làm chủ thật tánh, thật tướng, thật sắc,
thật ý, thật trí của ta. Tánh chủ, Tướng chủ, Sắc chủ, Ý chủ, Trí chủ, tiến sâu
vào con đường Tạo hóa, mở cánh cửa Cội Nguồn, tìm ra nguồn gốc Linh Hồn nhân
loại, nguồn gốc Tiểu Linh Hồn vũ trụ, nguồn gốc thế giới vật chất, nguồn gốc
vạn vật trong đó có nguồn gốc con người. Tìm ra Đại Đạo chủ nghĩa Đại Đồng Văn
Hóa Cội Nguồn lưu truyền chốn nhân gian, đưa Nhân Loại qua sông mê đến bờ giác,
sống mãi tự do nơi vũ trụ trên khắp cõi Thiên Đàng Cực Lạc. Có làm được như vậy
thời cuộc sống mới có ý nghĩa, lối sống đỉnh cao của cuộc sống, sống có ích cho
đời, cho người cho muôn sanh linh vạn vật.
Thái
Tử tuy còn rất trẻ nhưng lại có tầm nhìn rộng lớn, thấy rõ tình hình thế giới
hiện nay, nhất là tình hình ở phương Đông, các Vương Quốc, các Bộ Lạc, các
Vương Tộc, người Kinh cũng như người Thượng, thường xảy ra xung đột, nước này
với nước kia, Bộ Lạc này với Bộ Lạc nọ. Cảnh chiến tranh xung đột, cảnh chết
chóc thảm thương xảy ra hằng ngày hằng tháng, hằng năm. Binh Đao máu lửa lan
tràng khắp nơi, cảnh tù binh nô lệ xảy ra khắp châu lục, nhân dân sống dưới ách
thống trị tàn bạo của những kẻ háo chiến, cướp mất quyền sống con người, nhất
là cảnh dân chúng sống dưới ách thống trị hà khắc, không còn tính nhân Đạo, dữ
hơn Lang Sói Hổ Báo.
Thời
kỳ tranh giành thuộc địa càng ngày càng dữ, từ phong kiến Thần giáo biến thành
phong Kiến Địa Chủ, sự tranh giành thuộc địa càng về sau càng tàn bạo bất chấp
thủ đoạn lòng gian trá, mánh khóe, mưu mô xảo quyệt, đánh lừa để mưu lợi, nham
hiểm vô cùng, biết lợi dụng danh từ Chính Nghĩa, che đậy sự gian trá tham lam
ác độc của mình, bè phái mình. Sự gian trá che đậy nầy chỉ gạt được thành phần
nhân loại kém hiểu biết, làm sao che mắt gạt được Thái Tử, vì Thái Tử là Chí
Tôn Thiên Đế đầu thai xuống phàm trần. Nếu đất nước nào kém văn hóa, nhất là
văn hóa truyền thống, thời không tránh khỏi sự xâm lượt của nước khác, trở
thành đất nước nô lệ.
Một
đất nước mà vô Đạo, không có nền Hiến Pháp, Luật Pháp Đạo Pháp Chân Chính, chỉ
sống theo giáo Điều và Điều lệ của các tổ chức thống trị bè phái, giáo phái,
thời dân chúng đã coi như sống trong xã hội Địa Ngục trần gian.
Một
đất nước có Nền Quốc Đạo, có Nền Hiến Pháp, Luật Pháp Đạo Pháp Chân Chính, thời
dân chúng nương tựa vào Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp thành nề, thành nếp, sức
mạnh của một dân tộc đoàn kết, muôn hoa gốp phần làm đẹp mùa xuân, trăm sông
nghìn suối đều chảy về biển cả, hòa mình vào dòng Đại Dương.
Chỉ
có Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đồng là chân lý biển cả Đại Dương, cho bao ý tưởng, lý
tưởng đổ về, cho bao tổ chức, giáo phái, bè phái hòa mình vào đó trường tồn
vĩnh viễn, cũng chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn đưa nhân loại xích lại gần nhau, cùng
nhau tiến tới xây dựng xã hội Thiên Đàng Cực Lạc.
Sống
có Chân lý, sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp. Đạo Pháp Chân Chính, thời bản thân,
gia đình, xã hội, non sông Tổ Quốc như mùa xuân thắm tươi.
Sống
không có Chân lý, không có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Chính Nghĩa như cây
thiếu nước, thiếu phân, thiếu ánh sáng mỗi ngày một héo tàn và cuối cùng bị hủy
diệt.
Thái
Tử càng ngày càng đắm chìm trong suy nghĩ, ít nói, ít cười thường ngồi một chỗ
im lặng trầm tư.
Kinh
Dương Vương và Vương Phi Thần Long Nữ thấy Thái Tử Hùng Lan ngày càng trầm tư
như vậy, thời sinh ra lo lắng chẳng yên, liền triệu tập Vương Quan Đại Thần văn
võ hỏi xem cao kiến, hầu tìm ra phương pháp làm cho Thái Tử vui.
Nước Xích Quỷ có vị Quốc Sư Thục Lục, có sáu biệt tài không ai có nổi.
1 là tài Quân sự
2 là tài Chính trị
3 là tài Văn thơ
4 là tài Võ thuật
5 là tài Hội họa
6 là tài Âm nhạc
Lại
có nhiều kinh nghiệm về trị Quốc, ngoại giao với các nước láng giềng với tài ngoại
giao này làm cho các Vương Quốc lân cận kính nể, được coi như là một Vương Quốc
Xích Quỉ giàu có hùng mạnh nhất thời ấy. Danh tiếng Thục Lục lừng lẫy vang dội
như sấm, các Vương Quan Đại Thần nghe nói có kế sách gì làm vui cho Thái Tử,
tất cả đều lắc đầu, các Vương Quan Đại Thần còn lạ gì Thái Tử, một Thái Tử
thông minh, hiểu biết ngoài sức tưởng tượng của họ, họ nhìn Thái Tử như một dãy
núi cao mà họ không bao giờ vượt qua được, nói gì đến có kế sách làm vui cho
Thái Tử.
Kinh
Dương Vương nhìn thấy cảnh lắc đầu của các Vương Quan Đại Thần thời thở dài.
Quốc
sư Thục Lục thấy thế bằng thưa rằng:
Muôn tâu Quốc Vương, Thái Tử là bật Trời
sanh xuống thế, thông minh tài trí khác thường, các nhân tài dị sĩ ở nước Xích
Quỉ ta lần lượt không còn gì để truyền dạy Thái Tử được nữa. Nay Thần cũng
muốn gốp chút công sức truyền bá chút kinh nghiệm cả đời mình cho Thái Tử.
Kinh
Dương Vương nghe Quốc sư Thục Lục tâu thế thời lấy làm vui mừng vừa lòng lắm.
Bằng giao Thái Tử cho Quốc sư dạy bảo.
*********
Hết
phần 1 chương 6 mời xem tiếp phần 2 chương 6 Long Hoa Mật Tạng. Bộ kinh thượng
thừa Mật Tạng vũ trụ.
Có duyên gặp được Mật Kinh
Coi như giải thoát ức nghìn họa căn
Nếu như truyền bá ấn in
Linh hồn chuyển hóa vượt lên đỉnh trời.
CHƯƠNG
6
PHẦN 2
CON TRỜI CÓ KHÁC
Nói
về Quốc Sư Thục Lục dạy Thái Tử chưa đầy một năm Quốc sư Thục Lục phải chịu hết
tài để mà dạy, để mà truyền Thái Tử học một biết mười biết trăm, thường làm cho
Quốc sư phải nhiều phen sửng sốt, Quốc sư nghĩ con Trời có khác.
Hôm
nay là một ngày đẹp trời, nhìn cảnh vật muôn hoa đua nở, Quốc sư nhìn Thái Tử
rồi nói:
Năm cũ sắp qua năm mới lại về, thời gian
chẳng chờ đợi ai cứ lặng lẽ trôi qua nhanh chóng, con người chẳng mấy chốc rồi
già, cuộc đời sống gỡi thát về, còn về đâu Thiên Đàng hay Địa Ngục thời chưa
rõ. Thế mà lòng tham con người càng lúc càng bùng lớn lên, những nước lân ban
chúng có ý dồm ngó mãi nước ta, có cơ hội là xâm lược.
Quốc
sư nhìn Thái Tử rồi hỏi:
Khi nước mất nhà tan Thái Tử làm sao để
giành lại.
Thái
Tử hết sức ngạc nhiên với câu hỏi kỳ lạ đó nhưng cũng trả lời:
Quốc sư hỏi cho vui chứ làm gì có chuyện đó.
Quốc
sư nói:
Thái Tử thử nhìn xung quanh nước Xích Quỷ
ta, các nước lân ban họ đang làm gì trước con mồi béo bở chúng không xâm lược
nước ta được sao ?
Thái
Tử đáp:
Tuy đất nước Xích Quỷ ta là một đất nước
giàu có, binh lực hùng mạnh nếu riêng lẻ từng nước thời không có đất nước nào
đánh bại được đất nước ta. Nhưng nếu các Vương Quốc lân cận thống nhất với nhau
thành một khối liên ban xâm lược nước ta, thời nước Xích Quỷ chúng ta sẽ không
đỡ nổi. Nhưng không bao giờ có chuyện đó xảy ra, nếu có xảy ra cũng phải hàng
nghìn năm nữa và chỉ có một cách, cá lớn nuốt cá bé, các Vương Quốc thôn tính
lẫn nhau, rồi trở thành Cường Quốc thời nước Xích Quỷ ta chính là con mồi béo
bở cho chúng nuốt.
Quốc
sư nhìn Thái Tử lập luận phân tích vô cùng thám phục nhưng có chỗ chưa hiểu
hỏi:
Sao phải hàng nghìn năm tới các Vương Quốc
mới liên minh nhau, sao không phải là hôm nay hoặc hàng chục năm tới?
Thái
Tử đáp:
Hiện nay trình độ dân trí còn quá lạc hậu,
các Vương Quốc đang sống trong giáo điều và điều lệ, do Quốc Vương nước đó tự
đặc ra để cai quản thống trị độc quyền độc tài khó mà liên minh cùng các nước
chỉ còn cách là thôn tính lẫn nhau, mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, rồi
trở thành một cường quốc.
Không thể có chuyện các Vương Quốc vào giai
đoạn hiện nay liên minh với nhau thống nhất cùng nhau, trở thành một thế lực
Cường Quốc mà phải đến hàng nghìn năm nữa, trình độ dân trí lên cao, không phải
sống theo giáo điều và điều lệ do Quốc Vương đặc ra để thống trị. Mà sống theo
căn bản Quyền Con Người trở thành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Lý công
bằng bình đẳng, thời mới liên minh liên kết các nước được Hợp Chủng Tộc Tiến Lên
Hợp Chủng Quốc. Với sức mạnh ấy thời không có một đất nước nào chống trả nổi,
dù cho đó là một cường quốc. Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Lý Chân Chính
không phải do Quốc Vương tự đặc ra mà do Công Lý Xã Hội dựa trên nền tản Quyền
Con Người công bằng xã hội mà ra, tầng lớp trí thức nhân sĩ soạn ra, được đúc
kết tinh hoa nhân loại hàng nghìn nghìn năm.
Nhưng cũng có Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý
trá hình do chế độ Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị lập ra cũng cố địa vị cho mình
trói buộc dân chúng hết sức hà khắc biến dân chúng sống trong nhà tù xã hội.
Những thức Hiến Pháp, Luật Pháp giả hiệu nầy không mấy hiệu quả cho công suộc
trị quốc an dân vì tính bất công quá lớn. Lại tước đoạt hết quyền con người của
mỗi người dân do thể chế độc tài độc trị tạo ra. Vì vậy đối kháng của nước Xích
Quỷ chúng ta trong tương lai vài mươi năm nữa, không phải đối kháng Cường Quốc
liên minh mà là đối kháng Cường Quốc tàn bạo độc tài độc trị. Chúng thôn tính
đất nước ta bằng mọi thủ đoạn, gian manh xão trá và bạo lực.
Quốc
sư với vẻ mặt sáng tỏ nói:
Nếu bị chúng xâm lược thì ta phải làm sao?
Thái
Tử suy nghỉ rồi trả lời:
Với tình thế hiện nay, phương Bắc nước Xích
Quỷ ta có nhiều Vương Quốc nhưng phải kể ba Vương Quốc đang lớn dần và hùng
mạnh, đó là Vương Quốc Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh con cháu nhiều đời của Phục Hi,
Hiên Viên.
Thái
Tử nói:
Muốn đối kháng hay đánh bại ngoại xâm việc
lường trước là việc cần phải làm, phải nói làm thường xuyên lên kế sách nữa là
khác, những đường đi nước bước âm mưu của các thế lực ngoại xâm. Phải nói là
đừng để mắc mưu chúng, nhất là mưu trong kế sách ngoại giao lâu dài, những cái
lợi bao giờ cũng có cái hại. Nếu không tinh ý thời khó phát hiện có thể cả hàng
trăm năm sau mới phát hiện được. Thế lực cũng như danh và lợi là ba miếng mồi
ngon để câu nhử ta, chúng có thể tôn ta lên rồi hại ta, luồn cúi ta rồi trăm
phương nghìn kế để hạ gục ta, chúng khéo léo vơ vét tài nguyên béo bở mà lâu
nay chúng mơ ước cũng không bao giờ có. Chúng là những con Sói ngày đêm rình
rập con mồi hể có cơ hội là xơi.
Trước hết chúng ta phải tìm hiểu rõ chúng là
Cáo, là Sói, là Beo cho rõ. Nếu chúng là con quái vật vừa là Cáo, vừa lá Sói,
vừa là Beo thời chúng ta mới có kế sách để đối kháng về lâu về dài. Biết người
biết ta là nền tản cơ sở ưu khuyết của ta, ưu khuyết của địch, để rồi tìm ra kế
sách đối kháng, định hướng chiến lược sách lược. Chỉ có Ánh Sáng Chính Nghĩa
truyền thống luôn luôn sáng tỏ đến tận hang cùng ngỏ hẻm, một ý tưởng xấu nỗi
dậy là phát hiện ngay, ánh sáng Chính Nghĩa Văn Hóa truyền thống được trao cho
mỗi người dân, dù chỉ là một phần nhỏ, dân chúng cũng phát hiện ra âm mưu của
giặc. Loại Chồn, Cáo, Beo, Sói ẩn núp bất chính mưu đồ chiếm đoạt nước ta.
Chúng ta chỉ sợ các thế lực ngoại xâm có nội
ứng bên trong, còn thế lực không có nội gián bên trong nội ứng chỉ đường cho
giặc, đó chỉ là xâm lược mưa rào không có gì đáng sợ. Nếu kẻ thù mạnh hơn ta về
vũ lực, thời ta mạnh hơn họ về dân vận chính trị, đoàn kết muôn người như một.
Toàn dân kháng chiến, sức mạnh toàn dân là sức mạnh vô địch. Phải biết chờ thời
cơ, cướp lấy thời cơ tiêu diệt chúng, tính cách khôn khéo nhẩn nhịn, nhẩn nhục,
nhẩn nại, có tam nhẩn chính là Mật Tạng của Hùng, Bi, Trí, Dũng vượt qua bao
chướng ngại khó khăn đưa đến thành công.
Nếu ánh sáng Chính Nghĩa đó chính là ánh
sáng Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo dân tộc thời các thế lực ngoại xâm, xâm
lược ấy coi như đã bước chân vào chỗ chết, có đi mà không có trở về tất cả đều
bỏ mạng. Nếu ngoại xâm kẻ thù mạnh hơn ta về vũ lực cả chính trị lẫn nội ứng.
Thời ta phải mạnh về truyền thống anh linh Ông Cha, phát huy tinh thần Quốc Đạo
Dân Tộc, quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, mỗi người dân là một anh hùng dân
tộc. Mỗi chiến sĩ dũng cảm. Mỗi vị tướng tài năng đủ khôn khéo chuyển xây tình
thế biến nguy thành an, biến bất lợi thành đại lợi Lòng yêu nước là tường thành
kiên cố, ngoại xâm khó mà vượt qua tường thành yêu nước toàn dân nổi. Hơn nữa
tà không thắng được chánh. Sức mạnh Chính Nghĩa là sức mạnh bất tử vô địch, bản
sắc dân tộc Văn Hóa Cội Nguồn, truyền thống anh linh Ông Cha, truyền thống kế
thừa tự hào giữ vững nền độc lập. Mỗi người dân ai cũng vì non vì nước, toàn
dân là chủ của đất nước, đồng tâm quét sạch quân thù, sức mạnh nội lực truyền
thống dân tộc, là sức mạnh Chính Nghĩa dời non lấp bể. Sức mạnh nội lực ấy đứng
vững trên nền tản Quốc Đạo Dân Tộc, sức mạnh của lòng trung hiếu đối với Cha
Ông đối vơi Non Sông Tổ Quốc. Dù cho ngoại ban họ có mạnh tới đâu cũng bị đánh
bật ra khỏi đất nước, thất bại nhục nhã. Những thứ rác rưởi nhơ nhớp xâm lược
của chúng đã bị chúng ta quét sạch, và vùi chúng xuống hố rác nhục nhã nhơ bẩn để
mùi hôi thối của chúng đến mấy nghìn năm vẫn chưa hết.
Quốc
sư lại hỏi:
Thế lực ngoại xâm mạnh quá chúng đè bẹp
chúng ta thời làm sao?
Thái
Tử đáp:
Nếu thế lực mạnh hơn ta gấp trăm nghìn lần,
thế lực ngoại xâm là đá, còn thế lực của ta là trứng. Thái Tử nói nếu có trường
hợp đó, chúng ta biến đất nước ta thành đất nước trống không, dân chúng sẽ được
dời đến nơi hiểm địa, núi rừng hiểm trở tạo ra thế nước chảy đá mòn, chiến tranh
du kích lâu dài, nung nấu thời cơ chờ đợi. Chúng ta thắng giặc phải thắng trên
đất nước của họ, tạo ra chiêu pháp làm cho đất nước họ rơi vào kể bẫy tiêu diệt
lẫn nhau ngay nơi triều đại của chúng, gậy ông đập lưng ông. Đánh Rắn phải đánh
dập đầu, làm cho đất nước họ đảo lộn, tranh giành quyền lực với nhau dẫn đến
thôn tính nhau lật đổ nhau, đó chính là thời cơ chúng ta quật khởi, từ thế lực
của trứng nước, chuyển thành thế lực di sơn đảo hải ập tới như cơn bão lốc xóa
sổ chúng. Chỉ có Văn Hóa anh linh Truyền Thống ung đúc lên sức mạnh tinh thần
dân tộc. Nhất quyết không để mất nước, nhất quyết không làm nô lệ, noi gương
khí phách Ông Cha xông lên quét sạch quân thù. Một dân tộc luôn luôn ôm ấp
Chính Nghĩa ôm ấp lòng yêu nước thời không sợ một thế lực ngoại xâm nào cả. Khi
thế lực ngoại xâm mạnh hơn ta, tạm thời ta tạo ra thế vườn không nhà trống mà
thôi làm cho ngoại xâm không biết đâu mà lường. Bổng chốc nở ra thế lực Đại
Bàng, mang dòng máu anh hùng, nanh vuốt hận thù, bất khuất, quyết tử cho Tổ
Quốc quyết sinh, đồng loạt khởi nghĩa, chắc chắn phần thắng lợi sẽ thuộc về
mình. Vì lúc ấy con Mãng Xà hung dữ đã mất sức mạnh từ đất nước của chúng, lại
thêm chúng không hiểu về thực lực của ta, sức mạnh của chúng đã bị lung lay, vì
đất nước của chúng đã đi vào hổn loạn. Thời cơ đã chín mùi, chính là lúc chúng
ta quét sạch quân thù ra khỏi non sông Tổ Quốc.
Dân là nguồn tài nguyên vô giá của Quốc Gia,
vì vậy ta phải chăm lo cho dân thật tốt. Dân là tường đồng vách sắt, ngăn cản
và vùi dập quân thù xâm lược. Vì thế ta phải để cho dân tự phát triển mưu cầu
nuôi lớn trí huệ, nuôi lớn tài năng, phát huy nội lực dân tộc hùng mạnh. Dân là
Gươm Thiên sông núi, bảo vệ gìn giữ non sông Tổ Quốc. Nên ta phải bảo vệ cái
quyền của Dân, nhất là những Quyền Cơ Bản của mỗi con người. Quyền làm chủ xã
hội làm chủ non sông Tổ Quốc. Cũng vận mệnh của một quốc gia Một đất nước Văn Minh là một đất nước dân trí
phải được nân cao dân trí lên cao chính là nguồn tạo ra sự giàu sang xã hội
cũng như sức mạnh của một dân tộc. Đem lại sự hùng mạnh của một Quốc Gia dân
tộc. Nói tốm lại Dân là nguồn tài nguyên vô giá của non sông Tổ Quốc, không có
một thứ quí giá nào sánh kịp, kể cả vàng ngọc Kim Cương Trân Châu. Vậy nên phải
có chính sách lo cho dân chu đáo, để cho dân được tự do phát triển, thời không
một đất nước nào xâm lược, hay đánh thắng được dân tộc đất nước chúng ta. Kể cả
đất nước mạnh hơn đất nước ta gấp mười lần.
Dân là một nguồn tài nguyên đất nước vô giá
như vậy, nhà nước lại không biết quan tâm, còn ra thể chế nầy thể chế nọ trói
buột dân chúng tước hết Quyền Con Người thời đất nước đó mạnh về kinh tế giàu
về tinh thần sao được, phải nói là lụn bại. Làm Quốc Vương mà ít quan tâm bỏ
mặc dân chúng. Không những thế lại còn vơ vét bóc lột thậm tệ làm cho cạn kiệt
lòng dân, nước cạn thời cá sống ở đâu ? Thuyền lấy nước đâu để mà vương ra xa. Nếu
nói dân là nước còn Vương, Quan chính là cá, thời phải theo kế sách ao sâu béo
cá, nước giàu dân mạnh thời cá yên, nước nghèo dân mạc thời cá cùng đường,
Chồn, Cáo, Hổ, Báo ăn thịt sạch. Làm Quốc Vương phải kiên định.Thắng không kêu,
bại không nản, dù tạm thời bị nô lệ hoặc bị nô lệ nhưng bản sắc Văn Hóa Anh
LinhTruyền Thống không mất, đó la thế bất bại của một dân tộc Hổ phục Rồng nằm,
chờ thờ cơ là quật khởi, một dân tộc bất khuất là dân tộc biết yêu truyền thống
Văn Hóa của mình, từ thế bại vì quân giặc quá mạnh, nhưng sẽ chuyển thành thế
thắng, sớm hay muộn mà thôi.
Thái
Tử nói tiếp:
Xâm lược bạo lực không độc hại bằng xâm lược
Văn Hóa, sở dĩ một dân tộc bị nô lệ hàng nghìn năm, chính dân tộc đó đã bị Văn
Hóa ngoại xâm đè bẹp tinh thần dân tộc, ngóc đầu dậy không nổi, Văn Hóa ngoại
xâm đã thống trị tinh thần dân tộc của họ, làm cho họ khiếp đến nổi phải tôn
thờ Văn Hóa ngoại xâm nghe theo và làm theo.
Nước Xích Quỷ ta Tôn Thờ Thần Mặt Trời là vị
Thần tối cao vũ trụ, trong khi ấy các nước lân ban các quốc vương Văn Hóa Tôn
Thờ thấp hèn. Thờ Quỷ Thần, thờ Thần Cầm, Thần Thú, còn các nước Phương Tây
thời Phù Thủy. Nên các nước Phương Đông cũng như Phương tây không nước nào đủ sức xâm nhập Văn Hóa đánh
bại sự tôn thờ của dân tộc ta. Nên tinh thần dân tộc nước Xích Quỷ luôn đứng
vững. Độc Lập vì thế mà kéo dài không một đất nước nào sánh kịp. Nhưng tình
hình hiện nay đã đổi khác các nước lân ban nổi lên mạnh về bạo lực gươm đao
giáo mác, mạnh được yếu thua. Mạnh tồn tại yếu xóa sổ. Nên nước Xích Quỷ Ta
phải có chiều hướng đổi mới, mới mong giữ vững nền độc lập thái bình an lạc.
Quốc
sư lại hỏi:
Thưa Thái Tử giả sử có trường hợp, giặc
ngoại xâm đã đuổi, giặc Tham Quan sanh ra làm hại dân hại nước thời làm cách
nào để loại bỏ ?
Thái
Tử nghe Quốc sư hỏi thế thời lấy làm khó nghĩ mà cũng khó trả lời nhưng rồi
Thái Tử cũng phải trả lời. Thái Tử nói:
Thắng giặc ngoại xâm đã khó, nhưng dẹp loạn
quan tham lại càng khó hơn. Nhưng không phải khó mà làm không được, biết cách lèo
lái chính sách cũng như xóa bỏ Độc Tài Độc Trị, Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp
nghiêm minh. Tam quyền phân lập kiểm soát nhau hổ trợ nhau. Giữ vững kỷ cương
đất nước giáo dục đạo đức Dân, Quan, Vua đều theo một Đạo Luật Minh Chính, ai
ai cũng là chủ của xã hội, chủ của non sông Tổ Quốc. Và ai ai cũng có quyền
Ngôn Luận góp tiếng nói vào Công Lý xã hội chống giặc nội xâm đó là giặc Tham
Quan làm hại dân hại nước.
Quốc
Sư Thục Lục lại hỏi:
Đã là quan thời có quyền sanh sát trong tay
ai mà dám tố Quan tham ô, móc ngoặc, hối lộ. Quyền lực của quan có thể che được
Mặt Trời.
Thái
Tử đáp:
Sanh ra quan tham nhiều phần lớn là do thể
chế độc tài độc trị mà ra. Không Hiến Pháp Trị, Luật Pháp Trị, Đạo Pháp Công Lý
trị, nên tham quan mới lộng hành như vậy. Dân làm sao trị được Quan tham, mà
dân phản ảnh lên Hiến Pháp Trị, Luật Pháp Trị, Đạo Pháp Công Lý trị. Công Minh
Bình Đẳng không thiên vị một ai, Quan, Dân có tội đều xử như nhau. Thứ Gặc Tham
Nầy không chỉ ở Quan mà ngay ở Dân cũng có, Quan tham theo kiểu Quan, Dân tham
theo kiểu Dân. Thứ giặc khó trị vô cùng giặc tham quan sanh ra từ nội tâm con
người, ăn sâu vào gốc rẽ linh hồn con người. Nhất là Vương, Quan có điều kiện
lòng tham khởi lên mạnh hơn sự tham nào cũng dám làm, lòng tham được che đậy
đưới quyền lực. Nếu không có Văn Hóa Chính Nghĩa Nhân Quyền Dân Chủ thời khó mà
đẩy lùi được. Chúng mãi tồn tại ẩn núp dưới Thể Chế Độc Tài Độc Trị. Không có
Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp minh chính Công Lý hạn chế thời coi như Quốc nạn
tham ô tham nhũng không sao tránh khỏi. Dưới thể chế Độc Tài Độc Trị việc lợi
dụng sơ hở của thể chế để làm bậy, đã là Vương, Quan làm bậy thời còn sợ ai
nữa. Nếu không có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp minh chính triệt phá. Giặc
tham Quan rất nhiều dạng nhưng động cơ sanh ra chúng, đó là Dục Vọng bất chính
tà tâm, dựa trên tham lam mưu cầu danh lợi riêng mà ra. Cũng bỡi gì không kìm
hảm được lòng tham háo danh, háo lợi bất chính mà biết bao người phản Quốc hại
dân, phản Tổ, phản Tiên, làm tổn hại Non Sông Tổ Quốc, tổn hại Đồng Bào dân
tộc. Tội ác chi cũng dám làm, kể cả người thân của họ cũng bị loại bỏ. Tánh
tham lam trục lợi bất chính khó ai mà diệt tận chúng nổi, vì chúng ẩn núp trong
linh hồn con người. Linh Hồn con người luôn luôn bảo thủ bao che cho chúng,
nhất là tần lớp Vương Quan hủ hóa lại còn bao che thói hư tật xấu hơn nữa.
Muốn có một xã hội trong sạch công bằng văn
minh ít tham quan, thời xã hội đó phải gieo trồng Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo
Pháp minh chính quả ngọt hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm, đi theo hai con
đường, một là con đường Giáo Dục trong các trường học. Hai là con đường Đạo
Pháp Văn Hóa Chính Nghĩa truyền thống truyền dạy nơi các thờ tự. Với chính sách
lấy Dân làm gốc, dân là chủ của đất nước, chủ của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo
Pháp Công Lý. Quyền con người cũng như quyền của mỗi người dân phải được tôn
trọng và bảo vệ, bất khả xâm phạm dù cho đó là Vương Quan. Tạo Hóa sinh ra đều
bình đẳng, những quyền Tạo Hóa ban cho đều được thực thi. Nhà nước chính quyền
lúc nào cũng làm hết trách nhiệm thực thi Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp minh
chính bảo vệ quyền những quyền cơ bản
của dân. Chính quyền là đầy tớ trung thành của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp,
nhân quyền, Dân Chủ. Một đất nước bình đẳng. Một đất nước mà Đế, Vương, Vua,
Chúa không phải là tối cao trên hết mà là Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Lý Công Bằng, Bình Đẳng trên hết. Thời
nhà nước đó không lo về quốc nạn tham nhũng, tham ô. Dân chúng Vương, Quan sống
trong môi trường lành mạnh.
Mỗi người dân là mỗi dũng sĩ diệt gian, diệt
thói hư tật xấu của chính mình và tệ nạm xã hội, phê bình và tự phê bình, tự
mình xóa bỏ điều quấy, không ai thay thế xóa bỏ thói hư tật xấu cho mình, nếu
không xóa bỏ thời tự mình hại mình không sớm thì muộn cũng bị sa đọa, trước là
sa đọa cuộc đời, sau là linh hồn sa đọa âm phủ. Một đất nước đi vào Hiến Pháp,
Luật Pháp, Đạo Pháp, xóa bỏ độc tài độc trị, thời đất nước đó có trình độ dân
trí cao, giác ngộ Đạo Đức Chính Nghĩa lớn, làm chủ mình, làm chủ xã hội, làm
chủ non sông Tổ Quốc cho đến làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Bằng
xã hội. Muốn có xã hội ít tham quan làm hại dân hại nước là tất cả đi trên con
đường Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng Thiên Ý Cha Trời, Thiên Luật vũ trụ,
thực thi rốt ráo quyền con người. Nhân Quyền Dân Chủ Công Bằng Bình Đẳng xã hội
tiến tới dân giàu nước mạnh tự do ấm no hạnh phúc.
Quốc
sư Thục Lục càng nghe Thái Tử thuyết giáo phép trị quốc mới lạ chưa từng nghe
thấy bao giờ, nhưng xem đi xét lại thời câu nào cũng có lý, có cơ sở để mà
thành công Thục Lục nghĩ không lẽ lời biện minh của Thái Tử là phép trị quốc
trên trời Thái Tử muốn áp dụng vào chốn nhân gian.
Quốc
Sư Thục Lục lại hỏi:
Thưa Thái Tử từ xưa tới nay khắp các nước
nhỏ lớn, dù xưng Đế, xưng Vương, xưng Vua, xưng Chúa thời cách cai quản đất
nước na ná như nhau, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, giai cấp thống trị
chính là Vương, Quan của đất nước đó, còn giài cấp bị trị chính là dân. Nay lại
nghe Thái Tử nói trên Vương, Quan có Đạo Đức trị, Hiến Pháp trị, Luật Pháp trị,
nhà nước chỉ là hiện thân, thực thi Công Lý Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, đem
lại sự Công bằng, Bình Đẳng xã hội. Giai cấp Vương, Quan chỉ là đầy tớ trung
thành, bảo vệ Hiến Pháp, Luật Pháp. Đạo Pháp. Thi hành Hiến Pháp, Luật Pháp,
Đạo Pháp không thiên vị một ai, quan cũng như dân hể có tội liền bị xử như
nhau, việc này có thể làm được sao? Hay chỉ là một giả thuyết mơ tưởng.
Thái
Tử nói:
Không phải giả thuyết mơ tưởng đâu đó là xã
hội Thần Thánh, xã hội Công Bằng văn minh nhân loại.
Thái
Tử nói:
Đạo Đức trị, Hiến Pháp trị, Luật Pháp trị
hay hơn điều lệ trị, giáo điều trị, chế độ trị. Độc tài trị. Nhất là bạo lực
trị. Chỉ làm cho cuộc sống khốn khổ, dân khốn khổ thời Vương, Quan cũng chẳng
được yên. Chế độ độc tài độc trị dùng bạo lực trấn áp cai trị dân chúng thời
nhà tù mở rộng ra, Đạo Đức trị thời nhà tù khép lại.
Thế nào là Văn Hóa Đạo Đức trị ?
Đạo Đức trị chính là dùng Văn Hóa Đạo pháp
Chính Nghĩa giáo dục con người giảm bớt tội lỗi cũng như tội phạm, thay thế cho
thể chế độc tài độc trị bạo lực đàn áp cai trị con người. đưa xã hội đi lên Văn
Minh vật chất lẫn tinh thần, cái hay ở Văn Hóa Đạo Pháp Trị là ở chỗ đó.
Văn Hóa Đạo Pháp Trị không những giảm hận
thù mà còn đoàn kết dân tộc. Văn Hóa Đạo pháp trị có ánh sáng Chính Nghĩa có
công năng làm cho con người bỏ ác hành thiện, giác ngộ thấy cái sai của mình,
tự sửa chữa những hành vi thói hư tật xấu hình thành nhân cách tư cách con
người, đối nhân xử thế văn minh mẫu mực.
Trình độ dân trí được nâng cao. Là nhờ có
Văn Hóa Chính Nghĩa cải hóa tư duy ngăn chặn được vô lượng tội lỗi, do tà tâm
sanh ra làm hại cho bản thân cho xã hội, cho non sông Tổ Quốc. Văn Hóa Đạo Đức
Chính Nghĩa ăn sâu vào lòng dân, thời đem lại thái bình an lạc tận hang cùng
ngõ hẻm nhân loại đi đến chân thiện hoàn mĩ, vừa xua đuổi tà ma và ác quỉ, tiến
tới dân giàu nước mạnh tự do an vui hạnh phúc.
Thế nào là Văn Hóa Hiến Pháp trị ?
Văn Hóa Hiến Pháp trị là Văn Hóa khuôn mẫu.
Văn Hóa Tinh hoa Cội Nguồn khai dựng lập lên đất nước. Tổ quốc. Dân Tộc. Văn Hóa
Hiến Pháp Trị chính là Văn Hóa chính nghĩa Cội Nguồn. Văn Hóa truyền thống anh
linh dân tộc. (hay còn gọi là Văn Hóa
Nền Quốc Đạo) Văn Hóa khuôn mẫu của đường hướng Luật Pháp, Đạo Pháp, Chính
Trị. Nói chung là Văn Hóa Cội Nguồn cốt lõi nòng cốt của kim chỉ nam truyền
thống anh linh dân tộc.
Văn Hóa Hiến pháp trị là Văn Hóa truyền
thống anh linhTrị. Văn Hóa Hiến Pháp trị, Luật Pháp Trị, Đạo Pháp Trị không
phải là Văn Hóa Chế Độ, hay Văn Hóa truyền thống lâu đời của một Bộ Lạc, hay là
Văn Hóa của Tôn Giáo Đạo giáo. Mà là Văn Hóa Hiến Pháp Thống Nhất của Đời lẫn
Đạo, Văn Hóa Thống Nhất cả trăm Bộ Lạc, Văn Hóa Bách Việt văn Lang, Văn Hóa
đỉnh cao của cái Chung trong đó gắng liền cái Riêng của mỗi Bộ Lạc. Văn Hóa Chủ
Nghĩa Đại Đồng của đại Dân Tộc.
Văn Hóa Hiến Pháp Trị dựa trên nền tản Quyền
con người. Nhân Quyền. Văn Hóa của sự lấy Dân làm gốc Dân Chủ.
Văn Hóa Hiến Pháp Trị là Văn Hóa Chủ Nghĩa
của sự công bằng, bình đẳng văn minh, khác xa với Văn Hóa thể chế độc tài độc
trị.
Văn Hóa Hiếp Pháp Trị không phải là Văn Hóa
phong tục tập quán lạc hậu. Mà là Hiến Pháp khuôn mẫu nền tản của Luật Pháp.
Đạo Luật kim chỉ nam cho mọi hoạt động xã hội.
Hiến Pháp Trị chính là Văn Hóa truyền thống
anh linh trị, có công năng cải đổi tư duy con người đưa con người vào một quỷ đạo
chung nề nép trật tự xã hội. Hiến Pháp Trị luôn soi sáng tinh thần yêu nước
thương dân, tinh thần trách nhiệm xã hội, Tổ Quốc thiêng liêng trên cá nhân của
mỗi con người, gia đình, họ tộc. Hiến Pháp Anh Linh Đại Truyền Thống Dân Tộc
chính là Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Ánh sáng Hiến Pháp Văn Hóa Cội Nguồn Trị là ánh
sáng soi đường cho toàn dân tộc. Nhận thức rõ Chính Nghĩa, Phi Nghĩa. (Hiến Pháp là Vua của Nhà Nước Pháp Quyền,
Nhà nước lấy Quyền con người làm Nền Tản, Nhân Quyền. Lấy dân làm Gốc, Dân Chủ.
Trở thành nền Quốc Đạo anh linh dân tộc).
Vì thế Hiến Pháp, truyền bá rộng rãi đến mỗi
người dân soi rọi tới mỗi người dân, để dân hiểu, dân bàn, dân làm chủ, dân làm
theo. Dân tôn thờ, chính quyền các cấp phải có nhiệm khai sáng và truyền đạt
đến tận người dân cho dân hiểu dân làm chủ dân kiểm tra, dân làm chủ, dân tôn
thờ.
Thế nào là Luật Pháp trị ?
Luật pháp trị, là Luật Pháp bảo vệ Công Lý
Công Bằng Bình Đẳng xã hội của Hiến Pháp, Đạo Pháp. Luật Pháp Trị là những điều
luật khuôn phép đi vào đời sống xã hội giữ vững kỷ cương, ngăn cấm mọi hoạt
động đi ngược lại Hiến Pháp, Đạo Pháp.
Luật Pháp Trị là thừa hành những gì Hiến
Pháp có, thi hành những gì Hiến Pháp cho
phép những chi tiết Văn Từ, Ngôn Từ Văn
Pháp trong Hiến Pháp.
Luật Pháp Trị là những điều khoản. Luật lệ
khuôn mẫu. Trở thành những Điều Lệnh, Điều Luật, Điều Lệ, đi vào trật tự khuôn
phép xã hội Theo Văn Pháp Hiến Pháp Đạo Pháp.
Luật Pháp Trị là những điều khoản của Luật
Pháp. Trở thành Điều Chế, Điều Chỉnh, Điều Độ, Điều Khiển, bảo vệ Hiến Pháp,
cũng như trừng trị những người vi phạm Hiến Pháp. Vi Phạm Pháp luật.
Luật Pháp Trị khác với Chế Độ trị, Luật Pháp trị khỡi nguồn
sanh ra từ Hiến Pháp, dựa trên nguyên tắc Nền Tản quyền con người Nhân Quyền,
dựa trên nguyên tắc Dân là Gốc, Dân Chủ Hiến Pháp Đạo Pháp Chính Nghĩa, Nhân
Quyền, Dân Chủ công bằng xã hội.
Luật Pháp Trị, là Luật Phá bảo vệ anh linh truyền
thống, bảo vệ quyền con người, cũng như thực thi mệnh lệnh của Hiến Pháp.
Luật Pháp Trị là hiện thân quyền lực tối cao
của Hiến Pháp hiện thân Độc Lập, không lệ thuộc bất kỳ ai hay một Tổ Chức, Cơ
quan nào. Hể có tội liền bị xử phạt, ngay cả người đang thi hành pháp luật. Ánh
sáng pháp luật có công năng giữ vững kỷ cương đất nước, kỷ cương trật tự xã
hội, ngăn chặn mọi hành vi tội lỗi của con người, làm hại xã hội làm hại non
sông Tổ Quốc thái bình an lạc.
Luật Pháp Trị là Luật Pháp kỷ cương bảo vệ
Nhà Nước Pháp Quyền, Nhà Nước Hiến Pháp, Luật pháp, Đạo Pháp trên hết. Nhà Nước
Công Bằng Bình Đẳng Nhân Quyền Dân Chủ. Cao hơn nữa Thiên Quyền Nhân Chủ, Nhà
Nước của Dân do dân và vì Dân.
Vì thế Ánh sáng pháp luật phải đến tận tay
mỗi người dân, dân làm chủ, dân thực thi pháp luật phát hiện tố giác những hành
vi phạm tội đi ngược lại Hiến Pháp, Luật Pháp, dù đó bất cứ là ai, dân có đủ
quyền quyết định những trọng đại của đất nước, bác bỏ những gì Chính Quyền làm
sai không theo đúng Hiến Pháp, Đạo Pháp. Có đủ quyền hạn yêu cầu nhà nước bải
bỏ những điều luật phi lý không nằm trong Hiến Pháp Đạo Pháp.
Vì vậy muốn có một đất nước dân giàu nước
mạnh, Độc Lập giữ vững lâu dài, thời mỗi người dân là chủ của Hiến Pháp, Đạo
Pháp, Luật Pháp toàn dân thi hành công lý xã hội, công bằng văn minh, loại bỏ Chế
Độ Độc Tài Độc Trị. Không phù hợp với truyền thống hợp chủng nhiều dân tộc trên
50 dân tộc. Chỉ có Nhà Nước Pháp Quyền. Nhà Nước Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp
trên hết. Nhà Nước Của Dân, Do Dân vì Dân. Nhà Nước Bảo vệ Quyền con người, Nhân
Quyền. Lấy dân làm gốc Dân Chủ, tất cả Vua, Quan, Dân, đều sống dưới ngôi nhà
chung, ngôi nhà Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Thời đời
sống muôn dân, cũng như sự ổn định xã hội mới được thịnh trị tự do ấm no hạnh
phúc, bền vững lâu dài.
Một nhà nước độc tài thời sống theo khuôn khổ Chế Độ. Không có Dân Chủ , Nh ân
Quyền, tự do.
Một nhà nước pháp quyền thời sống theo Hiến
Pháp, Luật Pháp Đạo pháp dân tộc. Vương, Quan, Chính, Quyền là đầy tớ trung
thành cho Đạo pháp dân tộc, Hiến pháp dân tộc, Luật pháp dân tộc, sống trong
môi trường lành mạnh xã hội công bằng văn minh. Non sông Tổ Quốc Độc Lập lâu
dài, không có sự âm mưu lật đổ Nhà Nước cũng như Chính Quyền mà chỉ có sự thừa
kế Chính Quyền đi trước, thắp sáng Đạo pháp dân tộc, Hiến pháp truyền thống Cội
Nguồn dân tộc, Luật pháp Đạo Luật dân tộc nối tiếp đời đời thế hệ nầy sang thế
hệ khác cho đến tận mai sau.
Quốc
sư Thục Lục càng nghe Thái Tử nói tưởng như mình đang sống trong xã hội Thiên
Đàng Cực Lạc, Quyền sống, Quyền tự do, Quyền bình đẳng, Quyền mưu cầu hạnh
phúc. Nhân quyền được bảo vệ tôn trọng. Cuộc sống an vui hạnh phúc.
Trong
khi hiện nay không một đất nước nào, Vương Quốc nào có nền Văn Minh ấy. Mà chỉ
theo Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị. Vương, Đế, Chúa, trên hết.
Những
gì Thái Tử thuyết ra có phải đây chính là Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng
được nghe trong truyền thuyết nhân gian kể, xã hội Thần Thánh. Xã hội Thiên
Đàng Cực Lạc Quốc. Một xã hội có danh có lợi, có cạnh tranh. Nhưng danh lợi,
cũng như sự cạnh tranh đều theo một khuôn phép nhất định không ngoài cạnh tranh
Công Bằng Bình Đẳng. Tất cả mọi hoạt động xã hội. Theo Kim chỉ nam Hiến Pháp,
được Luật pháp công nhận, Đạo Luật cho phép, đó là Chánh Danh, Chánh Lợi, Chánh
Cạnh Tranh. Xã Hội Tiến Hóa đi lên tiến tới dân giàu nước mạnh.
Tốm
Lại : Những thứ danh, lợi. Cạnh tranh bất chính đi ngược lại Đạo pháp, Hiến
pháp, Luật pháp Chính Nghĩa đó là Tà Danh và Ác Lợi. Tà Danh và Ác Lợi luôn
luôn tồn tại trong tân thức ác tánh, lớn mạnh trong các Chế Độ xã hội chuyên
quyền Độc Tài Độc trị. Phát nguồn từ Phong Kiến Thần Giáo. Tôn thờ chủ nghĩa cá
nhân tồn tại cho tới ngay nay. Và sẽ chấm dứt Không tồn tại trong Chủ Nghĩa Đại
Đồng, Thiên Quyền Nhân Chủ, chủ nghĩa tối cao nhân loại con người. Cũng như chủ
Nghĩa Nhân Quyền Đa Nguyên Dân Chủ. Vì trình độ dân trí xã hội nhân loại con
người đã lên cao, chủ nghĩa Cá Nhân độc tài độc trị không còn phù hợp nữa. Tiến
tới xã hội Văn Minh công bằng bình đẳng. Xã hội Đạo Luật nhà nước pháp quyền,
Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp trên hết.
*********
Hết
phần 2 chương 6 mời xem tiếp phần 3 chương 6 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật
Tạng là Bộ Kinh Văn Hóa Tinh Hoa Rồng Tiên. Cội Nguồn dân tộc Bách Việt Văn
Lang, nay là dân tộc Việt Nam .
Một dân tộc anh linh Văn Minh tột đỉnh ở thời Quốc Tổ Hùng Vương khai dựng lập
quốc. Có thể nói Văn Hóa mẫu mực trị quốc an dân có một không hai trên nhân
loại con người. Những triết lý sâu xa, văn từ thậm thâm vi diệu, chỉ cần hiểu
một câu, một chữ cho thông suốt, cũng đặng phước báo vô biên. Hồn Thiêng Dân
Tộc che chở. Khí Thiêng Sông Núi Phù Trì. Huống chi truyền bá in ấn biên chép,
đọc tụng, thời phải nói là cầu chi đặng nấy, từ nghèo chuyển lên giàu, từ giàu
chuyển lên Thánh. linh ứng vô cùng. Khi mạng chung thời siêu sanh về các cõi
trời hưởng phước.
CHƯƠNG 6
PHẦN 3
ĐỜI SỐNG KHOA HỌC
Quốc
sư Thục Lục thấy Thái Tử trí huệ vô biên như vậy liền nghĩ đến lời nói của vị
Đạo Sĩ đón mộng, cũng như xem tướng Thái Tử thời tin chắc rằng Thái Tử chính là
Chí Tôn Thiên Đế đầu thai. Vị Chí Tôn thừa kế di chí Cha Trời. Chuyển xây vận
mệnh nhân loại. Quốc Sư lại nghĩ đã hỏi thời hỏi cho hết những gì khó giải
quyết nhất những vấn đề nan giải của xã hội.
Quốc
Sư hỏi:
Giặc ngoại xâm đã trừ, giặc tệ nạn xã hội đã
diệt nhưng dân chúng thời nghèo đói, ốm đau bệnh tật, thời ta phải làm sao đẩy
lùi chúng?
Lại
thêm một sự ngạc nhiên nữa đối với Thái Tử, với lối hỏi hóc búa của Quốc sư.
Thái Tử nói:
Thưa Quốc sư đây là câu hỏi khó, không dễ gì
trả lời được. Quốc sư mỉm cười nếu khó quá thời thôi vậy. Thái Tử nói, đây là
câu hỏi khó, phạm vi rộng lớn, không dễ gì trả lời cho hết được, từ một xã hội
vô cùng lạc hậu, trình độ dân trí kém, lại bị dưới quyền thống trị của Chế Độ
phong kiến, như nước Xích Quỉ ta đây còn khá, còn thống trị theo kiểu độc tài
độc trị cai ngục thời miển bàn tới.
Thái
Tử nói:
Lạc Hậu, Đói Nghèo, bịnh tật là một thứ
giặc, thứ giặc này khó đánh đuổi chúng ra khỏi đời sống con người, phải nói là
quá khó. Muốn đánh đuổi chúng, phải có hai đội quân chủ lực.
1: Là
đội quân trí thức khoa học.
2: Là đội quân máy móc khoa học.
Phải chờ nền văn minh Địa Tiên ra đời phải
có một sự cải cách xã hội lớn lao, không phải ai cũng làm được. Nhất là thời
kỳ ngày nay thời kỳ sơ khai khoa học vật chất ở các Cường Quốc hùng mạnh như
chúng ta cũng chỉ ở giai đoạn sơ khai văn minh vật chất, dù biết rằng Nước
Xích Quỷ ta nổi tiếng là văn minh lúa nước, văn minh kim loại đồng thau. Tuy ở
trong thời đại Phong Kiến Thần Giáo nhưng cũng hình thành Chế Độ Quân Chủ Lập
Hiến. Còn ở các Vương Quốc khác chỉ có một hai Vương Quốc gần theo kịp ta còn
tất cả thời lạc hậu còn xa lắm, nếu họ theo kịp thời đại Kinh Dương Ta, thời
phải mấy trăm năm nữa.
Con đường giải thoát đói nghèo, ốm đau, lạc
hậu không còn con đường nào khác hơn là con đường tiến tới làm chủ khoa học,
làm chủ thiên nhiên, từng bước từng bước phát minh sáng kiến khoa học trong thế
giới vật chất. Lần mò hiểu chúng, kết cấu chúng, làm chủ chúng, áp dụng chúng,
biến hóa chúng thành những thứ mình cần, đa dạng hóa công cụ, sản phẩm, khoa
học kĩ thuật, khoa học kiến tạo, khoa học chế tạo luôn luôn bổ sung chỉnh sửa,
tiến tới mỗi ngày mỗi hoàn hảo. Liên kết Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tạo ra máy
móc khai thác điện năng, tạo ra máy móc, thay thế sức lực con người phục vụ cho
xã hội, nhất là phục vụ trong nông nghiệp, trong công nghiệp. Khai Thác cho hết
công dụng của thể hơi, thể lỏng, thể đặc, thể lực, thời chế tạo ra máy móc mới
có hiệu quả cao, tiến xa hơn nữa là khám phá công dụng của thể lực, thể khí vũ
trụ, mẹ đẻ của nền văn minh khoa học thế giới vật chất.
Xưa kia con người ở thời Hồng Đế đào đất,
đốn cây bằng cuốc đá, rìu đá, lấy lửa chỉ dựa vào sấm sét. Nhưng hôm nay con
người đã biết đào đất, đốn cây, lấy lửa khác xa hoàn toàn như nước Xích Quỷ của
chúng ta đây, đào đất, chặt cây bằng cuốc đồng cuốc thau, rìu đồng rìu thau,
lấy lửa không cần chờ sấm sét mà dùng đá cứng ma sát mạnh vào nhau để lấy lửa,
còn các bộ lạc lạc hậu thời chưa có trình độ ở mức này, chỉ có ở các Vương Quốc
hùng mạnh mà thôi.
Ở thời Hồng Đế con người chỉ biết hái, lượm
để sống, săn thú, cầm, bò sát để tồn tại, lấy da che ấm nhưng hôm nay nước Xích
Quỉ ta đã biết trồng trọt, chăn nuôi để sống, hái lượm săn Thú, Cầm, bò sát chỉ
là phụ thuộc mà thôi, che ấm bằng tơ tằm dệt vãi. Thời đại ở hang, ở động đã
qua, thời đại ở nhà, ở lều thịnh hành và đang tiến tới cảnh lầu đài cung điện.
Thế giới ấm no hạnh phúc giàu sang không ở
đâu xa mà ở ngay trước mắt, chúng ta muốn có ấm no hạnh phúc lâu dài thời ít lệ
thuộc vào Thiên Nhiên như thời Hồng Đế lấy lửa nhờ sấm sét. Thờ Lửa. Còn thời
nay ta là chủ nhân của lửa, muốn có lửa là có lửa, chúng ta muốn có xã hội ấm
no hạnh phúc thời chúng ta là Đấng Tạo Hóa thứ hai, kế theo thừa kế Tạo Hóa Tổ
Tiên. Tổ Tiên tạo lập vũ trụ, thế giới vật chất, còn ta tạo lập cuộc sống, cấu
kết vật chất kiến tạo lên cuộc sống ấm no, xây dựng xã hội Thiên Đàng Cực Lạc.
Để làm được thế chúng ta cần hiểu rõ căn Cội của thế giới vật chất, công dụng
công năng của chúng làm chủ chúng, như ta làm chủ tìm lấy lửa, biến cái chung
mà chúng ta cần dùng.
Như thời ông Cha ta VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG. VIÊM
ĐẾ SÙNG LÃM với nền văn minh lúa nước, văn minh hội họa giao tiếp, làm thông
điệp xã giao, ngoại giao. Chúng ta muốn giải trừ đói nghèo, lạc hậu, bệnh tật
thời chúng ta phải giải trừ sự ngu dốt, tiến tới làm chủ khoa học kỷ thuật,
tiến tới làm chủ Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp, làm chủ xã hội, làm chủ non
sông Tổ Quốc, sống trong xã hội công bằng văn minh, mang tính cách phục vụ cao.
Nhà nước phải có chính sách thông thoáng,
không gò bó sự phát triển, cá nhân tập thể ưu đãi người có tài, ưu đãi sở hửu
trí tuệ, khuyến khích phát minh bảo vệ giúp đỡ họ. Nắm bắt thời cơ hội nhập
kinh tế, làm trung gian Cung Cầu, cho mọi tầng lớp phát triển. Dân phát triển
theo kiếu khả năng của dân, nhà nước phát triển theo kiểu qui mô của nhà nước,
những cái mà dân không đủ sức làm được. Như khai thác quản lý tài nguyên Quốc
Gia, xuất nhập dung hòa sản phẩm, khai mở huyết mạch giao thông, trọng yếu
Đường biển, Đường sông, Đường bộ, Liên thôn, Liên xã, Liên Quận, Liên Huyện,
Liên Châu, Liên Bộ, Liên Miền thông thương dọc ngang như bàn cờ, biển thông lên
núi.
Chính sách ngoại giao, giáo dục được coi như
đưa lên hàng đầu. Quan quyền thời bình, thời trở thành các nhà kinh tế lãnh đạo
khoa học kĩ thuật, lãnh đạo ngoại giao, làm mối giềng chổ tựa cho các thế lực
trong nước, ngoài nước trao đổi kinh tế. Bảo vệ tốt, trọng tài tốt. Nhà nước,
nhân dân, các thế lực kinh tế đồng có lợi. Một nhà nước không sợ các thế lực,
Quân sự, kinh tế, chính trị lật đổ, là một nhà nước pháp quyền, có nền Quốc Đạo
vững chắc. Truyền thống dân tộc vững vàng, như dãy núi cao mà các thế lực với
không tới, vược qua không nổi.
Với tài nguyên phong phú của từng vùng, từng
quốc gia, từng đất nước. Gạo đổi lấy muối, cá đổi lấy ngô. Vải bô đổi lấy Voi
Ngựa. Nhờ trao đổi sản phẩm, kiến thức khoa học nhờ đó mà tăng lên rất nhanh.
Tôn trọng quyền phát minh, sáng kiến của mỗi
người dân. Luật pháp bảo vệ họ, nhà nước khen thưởng họ, giúp đở họ. Coi họ như
là chiến sĩ có công với xã hội. Đó chính là phát huy tìm năng nội lực quí báu
của dân tộc. Nội lực tri thức khoa học. Nhờ nội lực tri thức nầy, đưa đất nước
tới xóa đói giảm nghèo. Đẩy lùi lạc hậu. Tôm gốp tinh hoa phát minh sáng kiến,
khoa học nhân loại. Truyền bá rộng rãi trong đời sống con người. Đó là thế mạnh
đưa đất nước tiến lên văn minh hiện đại. Khuyến khích dân làm giàu, thời nhà
nước phải hổ trợ sự phát triển đa năng của dân. Làm trọng tài cho sân chơi cạnh
tranh bình đẳng. Có làm được như vậy thời đời sống ấm no hạnh phúc sẽ đến với
xã hội con người. Đời sống thăng hoa giải trừ lạc hậu nghèo đói khốn khổ.
Quốc
Sư Thục Lục càng nghe Thái Tử giải trình. Như mình đang lạc vào một thế giới
văn minh đỉnh cao nhân loại con người thế giới thiên đàng cực lạc trần gian.
Nhờ sức thông minh hiếm có của Thục Lục. Quốc Sư Thục Lục Không những thông
suốt giải đáp mọi thắc mắt xưa nay của mình. Mà còn làm cho mình thấy được chân
trời mới. Chân trời của sự giãi thoát đói nghèo, lạc hậu.
Thái
Tử tuy còn nhỏ. Nhưng có tầm nhìn rộng lớn, Của bật đại giác ngộ. Bậc Tôn Sư
lãnh đạo đất nước. Hiểu rõ sự tồn vong, của một đất nước cũng như cuộc sống đi
lên xã hội. Và thật vậy con người đứng vững được là nhờ bộ xương. Tổ Quốc đứng vững mãi là nhờ rường cột, cốt
lõi của đạo đức anh linh truyền thống. Dân giàu nước mạnh là nhờ đường lối
thông thoáng. Làm chỗ dựa vững chắc cho dân phát triển. Việc dân nghèo dân đói,
chỉ có dân vươn lên mới giải quyết được.
Quốc
Sư lại hỏi:
Muốn độc lập kéo dài, ngoài từ bỏ con đường
gia đình trị, chế độ độc tài độc trị, phong kiến thống trị, tiến tới Nhà Nước
Pháp Quyền, xã hội công bằng bình đẳng. Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp trên
hết. Trở thành Nền Quốc Đạo truyền thống của dân tộc tối cao. Còn Vương, quan
chỉ là đầy tớ trung thành của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp dân tộc. Ra sức bảo
vệ và triệt để thi hành Hiến Pháp - Luật Pháp - Đạo Pháp dân tộc, giữ vững cán
cân Công lý, Công bằng Xã Hội. Lấy Đạo trị dân, lấy Đức trị dân, lấy Công Bằng
Xã Hội trị dân. Làm cho dân phát triển dân trí, chấn hưng dân khí, thấm nhuần
đạo lý truyền thống, Ông Cha, thấm nhuần
Đạo Đức, thấm nhuần Hiến Pháp - Luật Pháp - Đạo Pháp. Đặc quyền lợi xã hội trên quyền lợi cá nhân.
Sống vì Tổ Quốc, sống vì Đồng Bào nhân loại anh em. Cái chung là thể xác, cái
riêng là tế bào, tế bào chết thời thể xác tan rã cũng chẳng còn. Cái Chung cái
Riêng luôn song hành hiện hửu tuy hai mà một, tuy một mà hai. Sự trường tồn của
cái chung, cũng chính là sự trường tồn của cái riêng. Ngoài những mấu chốt căn bản kể trên còn có
thêm điều gì nữa không?
Thái
Tử đáp:
Quốc sư hiểu như thế là quá đủ lắm rồi nhưng
có một vài điều làm sáng tỏ thêm cái chung và cái riêng.
*********
Hết
phần 3 chương 6 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 4 chương 6.
CHƯƠNG 6
PHẦN 4
CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG
Thái
Tử nói:
Văn Hóa Đạo pháp Chính Nghĩa truyền thống
Anh Linh Dân Tộc. Văn Hóa Hiến pháp Chủ Nghĩa Đại Đồng đoàn kết dân tộc. Văn
Hóa Luật pháp Bình Đẳng công bằng dân tộc là cái chung của toàn xã hội, không
phải của riêng ai, cá nhân hay một tập thể nào, thuộc về Quốc Bảo Văn Hóa cái
chung của toàn dân tộc, cũng như Non Sông Tổ Quốc, không của riêng ai là Tổ
Quốc chung của toàn dân tộc. Chính quyền do dân bầu ra, không phải là để đàn áp
cai trị dân mà là đại diện cho dân nắm vững cán cân công lý, thực thi cái chung
công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi chung cho toàn xã hội trong đó có quyền lợi riêng
của mỗi người. Quyền lợi chính đáng mà Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp cho phép.
Ở các thời phong kiến, phong kiến Thần giáo,
phong kiến Địa Chủ, phong kiến Chế Độ độc tài độc trị. Dân có cái riêng nhưng
chỉ là cái riêng để mà sống không những không làm chủ được cái riêng sự sống
của chính bản thân mình, nói gì đến cái quyền làm chủ cái chung, không có cái
quyền làm chủ non sông Tổ Quốc, không có quyền làm chủ xã hội, tất cả là của
trẩm, thiên hạ Đồng Bào là của trẩm, non sông Tổ Quốc đều là của trẩm. Thử hỏi
Đồng Bào nhân dân có cái gì là quyền riêng của mình đâu, vì tất cả là của
Vương, của Vua, của Chúa đương thời, Vua muốn cho là cho, muốn lấy là lấy. Thậm
chí Quyền sống, Quyền được sống, Quyền ngôn luận, Quyền tự do, Quyền bình đẳng,
Quyền mưu cầu hạnh phúc, làm gì được có những thứ Quyền ấy, mà sống trong sự
thống trị của Chế Độ Điều Lệ độc tài độc trị do Vương, Vua, Chúa phê duyệt ban
ra theo ý Vương, Vua. Chúa. Nếu gặp thời may mắn Vương, Vua, Chúa có chút Đạo
Đức nhân tính thời còn dễ thở. Bằng gặp phải Hôn Quân, Vương, Vua, Chúa vô Đạo
thời dân chúng vô cùng khốn khổ, phải nói sống như một đầy tớ nô lệ mà thôi,
Vua biểu chết là chết, Vua cho sống là sống vận mệnh của mỗi người dân đều nằm
trong tay của Đế, Vương, Vua, Chúa đương thời, thử hỏi dân có cái quyền đâu mà
để có được hạnh phúc, nói chi đến chuyện tự do, làm chủ.
Đã không có quyền, thời sống như nô lệ không được làm chủ bất cứ những gì. Người dân
sống dưới các thời phong kiến Thần Giáo, Phong Kiến Độc Tài Độc Trị, người dân
không những mất cả sở hửu cái riêng, cũng như cái chung, sống như một đầy tớ nô
lệ, họ không có cái quyền chi cả, dân không bao giờ được làm chủ xã hội, làm
chủ non sông Tổ Quốc mà ngay cả bản thân, làm chủ quyền sống cũng không làm
chủ được nói gì đến quyền làm chủ sở hửu tư riêng, quyền làm chủ sở hửu cái
chung. Dân không có cái quyền thừa kế Truyền Thống Xã Hội. Non Sông Tổ Quốc mà
bao thế hệ Ông Cha đã gầy dựng lên. Đây cũng là một sự thiệt thòi của mỗi người
dân đầy bất công trong cuộc sống.
Tạo
Hóa Tổ Tiên khi khai tạo ra loài người thời cũng đã ban cho mỗi con người
nhiều thứ quyền, trong đó có Quyền sống, Quyền được sống, Quyền làm chủ, Quyền
tự do, Quyền bình đẳng, Quyền ngôn luận, Quyền mưu cầu hạnh phúc, những thứ
Quyền ấy dưới các triều đại Phong Kiến Thần Giáo, Phong Kiến độc tài độc trị,
đã bị sự độc tài độc trị, cướp lấy đi, không cho người dân có những thứ quyền
ấy. Đây là một thiệt thòi vô cùng lớn lao cho những người được sinh ra làm
người và lớn lên trong xã hội. Sống trong sự sống đầy sự vô lý, và những bất
công thời xã hội con người khó mà văn minh được. Các Vương, Vua, Chúa thời nay
hầu hết là chưa nắm rõ và hiểu rõ Thiên Luật, Thiên Tạng vũ trụ, chưa hiệp theo
Thiên Mệnh, vì thế Thể Chế Độc Tài Độc Trị Vương, Vua, Chúa sẽ dần dần loại bỏ,
một khi xã hội phát triển tiến lên đến xã hội công bằng văn minh, một xã hội mà
người dân có cả sở hửu cái chung mà cũng có cả sở hửu cái riêng. Sống theo
Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Nhân Quyền Dân Chủ Công Bằng Bình Đẳng văn minh.
*********
Hết
phần 4 chương 6 mời xem tiếp phần 5 chương 6 Long Hoa Mật Tạng. Thời chúng ta
mới thấy như thế nào là tinh hoa cuộc sống của con người. Mà Quốc Tổ đã truyền
dạy cho Bách Việt Văn Lang, một dân tộc văn minh tuyệt đỉnh ở vào thời đại đó.
Dần dần đi vào thất truyền âu đó cũng là cơ vận của tọa hóa vậy. Đất nước Văn
Lang kéo dài độc lập rất lâu 2701 năm tất cả đều nhờ vào nền Văn Minh Hiến
Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Tôn trọng quyền con người Nhân
Quyền, lấy Dân làm Gốc Dân Chủ. Nhà Nước Văn Lang là Nhà Nước Pháp Quyền. Nhà
Nước của Dân, do Dân và vì Dân.
Truyền Thống Cha Ông thật diệu kỳ
Anh Linh Quốc Tổ sáng uy nghi
Gầy dựng non sông ngời tỏa sáng
Con cháu Tiên Rồng dậy mà đi.
CHƯƠNG 6
PHẦN 5
XÃ HỘI CÔNG BẰNG VĂN MINH
Thái
Tử nhìn Quốc Sư Thục Lục rồi nói thêm rằng:
Xã hội Công Bằng văn minh là xã hội có cả sở
hữu cái chung và cũng có cả sở hữu cái riêng ai cũng như ai thuận theo Thiên
Luật vũ trụ Thiên Ý Cha Trời, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ non
sông Tổ Quốc, cho đến làm chủ Đạo Pháp xã hội, Hiến Pháp xã hội, Luật pháp xã
hội. Xã hội Công Bằng văn minh là xã hội cái chung và cái riêng không tách rời
nhau, như tế bào và con người, con người và tế bào, tế bào tồn tại là con người
tồn tại, tế bào hỹ hoại con người theo đó cũng đi đời, bảo vệ con người cũng
chính là bảo vệ tế bào, bảo vệ tế bào cũng chính là bảo vệ con người.
Con người bảo vệ Đạo pháp, Hiến pháp, Luật
pháp. Bảo vệ cái chung có nghĩa là bảo vệ quyền lợi riêng cho chính mình, bảo
vệ xã hội, bảo vệ non sông Tổ Quốc, bảo vệ Đạo pháp, Luật pháp, Hiến pháp là tự
bảo vệ mình. Vì Hiến Pháp. Luật Pháp, Đạo Pháp. Là công cụ bảo vệ quyền con
người cái chung, trong đó có cá nhân cho mỗi con người được thế hiện đầy đủ các
quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho họ. Con người là tế bào tạo ra sự sống xã
hội. Xã hội là lẽ sống của con người, lẽ sống tồn vong hạnh phúc thời con người
xã hội trở nên văn minh.
Xã hội Công Bằng Bình Đẳng văn minh là xã
hội không có sự thống trị của Chế Độ độc tài độc trị. Mà tất cả chỉ sống theo
Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp công bằng bình đẳng. Giai cấp Vương, Quan chính
quyền chỉ là giai cấp đầy tớ trung thành của Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp. Giữ
vững đạo luật kỷ cương đất nước. Tiến lên thế giới Đại Đồng cũng có nghĩa là
tiến sâu vào Đạo pháp công ước Quốc Tế làm sáng tỏ Quyền Con Người (Đạo Luật nhân quyền), bảo vệ tôn trọng
nhân quyền là đi đúng Thiên Ý Cha Trời. Bảo vệ Cái quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã
ban cho mỗi con người, những quyền bất khả xâm phạm. Bất cứ là ai cũng không
có quyền cướp đoạt xâm phạm. Những kẻ tự cho mình cái quyền sanh sát thiên hạ,
là những kẻ tự đào lỗ chôn mình. Những kẻ tôn trong Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo
Pháp mới có đầy đủ các quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho họ. Còn những kẻ độc
tài độc trị chính họ đã tự đánh mất những quyền mà Tạo Hóa đã ban cho họ. Những
kẻ đi ngược lại Thiên Ý Cha Trời. Thiên Luật Vũ trụ. Không sớm thì chầy cũng bị
đánh đổ. Những kẻ có tư tưởng thống trị thiên hạ bằng con đường độc tài độc trị. Là một điều sai lầm lớn dẫn đến đấu tranh
giai cấp xung đột tàn sát lẩn nhau. Kết quả đều lưỡng bại câu thương không có
kết quả tốt, đưa nhau xuống Địa Ngục.
Thái
Tử nói:
Muốn cho dân giàu nước mạnh, xã hội Công
Bằng văn minh, Độc Lập lâu dài chỉ có con đường duy nhất là Thuận Thiên, tôn
trọng quyền con người, nhân quyền cho mỗi con người mỗi Quốc Gia, mỗi dân tộc.
Chúng ta có cái chung nói rộng thời toàn cầu, nói hẹp thời đất nước Xích Quỷ
chúng ta phải tôn trọng cái quyền chung là Quyền Con Người, bảo vệ cái chung quyền
con người toàn cầu, cũng như đất nước Xích Quỷ chúng ta. Là chúng ta đi đúng
hướng hiệp với Thiên Ý Cha Trời. Thiên Luật vũ trụ. Chúng ta bảo vệ quyền con
cái chung cũng có nghĩa là bảo vệ sự sống cái riêng của mỗi chúng ta. Bảo vệ
sự sống tự do quyền con người nhân quyền của chúng ta, cũng có nghĩa là bảo vệ
Nhân Quyền cái chung nhân loại toàn cầu những quyền bất khả xâm phạm. Nếu làm
được như vậy thời còn lo chi không tiến tới xã hội dân giàu nước mạnh thế giới
thái bình an lạc.
Con đường tiến về Cội Nguồn, là con đường
bảo tồn hạnh phúc lấy Đạo pháp truyền thống Chính Nghĩa dạy dân làm món ăn tinh
thần trong đời sống hằng ngày, nuôi lớn trình độ dân trí, nuôi lớn tinh thần
dân tộc chấn hưng dân khí. Thế hệ trước, thế hệ sau cùng đi chung một con đường
truyền thống anh linh như vậy. Thời non sông Tổ Quốc không có một thế lực ngoại
ban nào xâm lược nổi. Độc Lập kéo dài là đều tất nhiên.
Thái
Tử luôn khẳng định:
Một đất nước phồn thịnh, phải đạt đến cảnh
giới Văn Minh Tinh Thần, đi đôi với Văn Minh Vật Chất, Giáo dục là Quốc Sách.
Muốn làm được như vậy phải có Văn Hóa Nghệ Thuật. Ca, Múa Nhạc, Kịch, Thể Dục,
Thể Thao, Văn nghệ phong phú, võ thuật phát huy rèn luyện thân thể, đưa đẩy
phong trào giáo dục văn hóa anh linh Truyền Thống lên cao. Không những đẩy lùi
bệnh tật. Mà còn cho con người nhận thức Văn Hóa chính nghĩa lên một tầm cao.
Không có cuộc sống hạnh phúc nào hơn là lấy lễ đối đãi với nhau như anh em một nhà,
đối nhân xử thế tôn trọng người khác chính là tôn trọng mình. Tinh thần
sáng suốt minh mẩn, trong thể xác khỏe mạnh. Văn Hóa nghệ thuật, võ nghệ, Thể
Dục, Thể Thao, ca nhạc, văn nghệ, phong trào lên cao không những làm cho tinh
thần sản khoái yêu đời tuổi thọ nâng cao mà còn đẩy lùi được bệnh tật, đưa nhân
loại xích lại gần nhau hiểu nhau tất cả đều là bạn, quan hệ giao lưu cùng nhau
đôi bên cùng có lợi.
Thái
Tử nhìn Quốc Sư như tự hỏi Quốc Sư có cần hỏi thêm gì nữa không ?
Quốc
Sư Thục Lục thưa:
Thưa Thái Tử. Thái Tử đã vẽ lên một thế giới
tương lai kỳ lạ, có thể nói là quá xa xăm xa lạ với cuộc sống nhân loại ngày
nay, nhưng những gì Thái Tử thuyết giáo tất cả đều là hiện thực, không phải là
ảo tưởng. Hôm nay tuy làm chưa được nhưng Thần tin tưởng ở tương lai, Thái Tử
sẽ xây dựng lên đất nước mới, thế hệ mới do Thái Tử lập lên sau này.
*********
Hết
Phần 5 chương 6 mời xem tiếp phần 1 chương 7 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Bộ Kinh
tối cao có một không hai chốn nhân gian chỉ cần hiểu được thâm ý một câu,
một chữ cũng đã thấy khó lắm rồi. Huống
chi hiểu cả chương cả phần kinh. Những thâm ý trong kinh vô cùng rộng lớn thậm
thâm vi diệu sâu xa, Chỉ cần giảng một câu một chữ cũng đặng phước đước vô biên
rồi. Thái Tử Hùng Lan chính là Quốc Tổ Hùng Vương là vị tối cao Chí Tôn Thiên
Đế đầu thai đem Thiên Ý Cha Trời truyền xuống nhân gian. Để cho Nhân Loại trần
gian sống theo Thiên Ý mà về trời. Đọc qua Long Hoa Mật Tạng Kinh chúng ta
không khỏi tự hào vì dân tộc Việt Nam có vì Quốc Tổ tối cao như thế. Quốc
Tổ đã để lại cho chúng ta cho con cháu Việt Nam hai di sản quý hiếm. Một là Tổ
Quốc Non Sông. Hai là Văn Hóa Cội Nguồn Truyền Thống Anh linh Dân Tộc. Với công
ơn nầy chúng ta không gì đền đáp nổi.
Theo bước Cha Ông lập đỉnh trời
Cội Nguồn Truyền Thống rạng muôn nơi
Quốc Đạo bừng lên muôn sức sống
Việt Nam
ngời sáng mãi đời đời.
CHƯƠNG 7
PHẦN 1
CẢI CÁCH ĐỔI MỚI HƯỚNG ĐI
Để
quyết định một vấn đề được coi như là nhạy cảm quan trọng Quốc sư hỏi:
Thưa Thái Tử, theo tình thế hiện nay, các
Vương Quốc ở cận ta đang bành trướng dữ dội và hầu như chúng có âm mưu dòm ngó
đất nước ta, trước tình thế nầy Thái Tử có mưu tính gì, kế sách gì đối phó
chúng, hoặc gồm thâu chúng mở rộng đất nước ta chăng, thực hiện theo ý tưởng
Văn Minh về Quyền Con Người cũng như lấy Dân làm gốc của Thái Tử?
Thái
Tử đáp:
Ta cũng có mưu tính, dự tính mở rộng phạm vi
nước Xích Quỉ ta, gồm thâu Thiên Hạ nhưng không phải ở thế xâm lược mà ở thế
Liên Minh Liên Kết thành một cường quốc. Sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo
Pháp nền Quốc Đạo dân tộc.
Nếu ở thế xâm lược như xưa nay các Vương
Quốc đã từng làm, thắng là Vua thua là giặc, thắng thống trị, thua bị trị, kẻ
theo ta thời sống, người chống ta thời chết. Đó là hạ sách ở thế gồm thâu thiên
hạ. Dùng Tà Ý phi nghĩa gồm thâu thiên hạ tuy lập lên một cường quốc nhưng sớm
tan rã độc lập khó mà kéo dài được.
Muốn lập lên một cường quốc mà ở thế xâm
lược gồm thâu thiên hạ thời không ổn. Vì đổ quá nhiều xương máu. Chưa nói đến
trở ngại các thế lực Quốc Vương chống trả, mà ngay cả những Bộ Lạc, sống rãi
rác ở khắp nơi, dân tộc nào cũng có khí phách anh hùng, thậm chí có nhiều Bộ
Lạc vốn yếu hơn các Bộ Lạc nhưng lòng bất khuất thà chết chứ không chịu đầu
hàng làm nô lệ. Liều mạng bảo vệ Tổ Quốc, cũng như Bộ Lạc của họ.
Trước đây ông Cha ta mở mang đất đai bờ cõi,
theo kiểu du canh du cư, vì thời đó là thời hoang vu con người chưa được khai
hóa. Không thuộc quyền sở hửu của dân tộc nào, Bộ Lạc nào, Bộ Tộc nào. Nhân
loại còn trên đường Du Canh, Du Cư tuy có người tới trước khai phá nhưng lại bỏ
đi nơi khác, ý thức làm chủ đất đai chưa mấy, nhưng hôm nay con người đã có ý
thức làm chủ đất đai, dẫn đến tranh giành thuộc địa, mở mang cho phong kiến Địa
Chủ Thần Giáo ra đời, sự độc tài độc trị tranh giành đất đai càng ngày càng lớn
máu nhượm địa cầu hận chồng lên hận, thù chồng lên thù, sự tàn bạo mỗi ngày một
thêm dữ dội, oán thù cứ thế mà chồng chất lên nhau, cảnh cá lớn nuốt cá bé,
chẳng khác nào Gà nuốt Dế, Chồn nuốt Gà, người ta săn Chồn xơi thịt. Nếu giả sử
gồm thâu được thiên hạ lập lên cường quốc, nhưng tìm ẩn mối nguy lật đổ thôn
tính lẫn nhau là rất lớn. Chẳng khác nào dã tràng xe cát biển đông.
Nếu chúng ta dùng bạo lực xâm chiếm đất đai
đàn áp các Bộ Lạc, bắt các Bộ Lạc tùng phục mình lập lên một cường quốc hùng
mạnh, dù đó là ý tưởng tốt có chí hướng
vĩ đại nhưng không gọi đó là chính đáng được vì ta xâm lược thôn tính các Bộ
Lạc ta đang ở thế tà mạnh được yếu thua thắng là Vua, thua trở thành các Bộ Lạc
nô lệ chư hầu, Độc Lập khó mà được lâu dài.
Vì thế
chỉ có con đường duy nhất là dùng gươm thiên trí huệ hàng phục các Bộ
Lạc thậm chí hàng chục cho đến cả trăm Bộ lạc quy thuận ta liên minh xây dựng
lên một cường quốc độc lập hưng thịnh lâu dài hàng nghìn năm. Nếu xây dựng lên
một cường quốc dùng bạo lực thắng là Vua, thua buộc quy thuận làm nô lệ dưới sự
cai trị Độc Tài Độc Trị của ta. Thời mối nguy tai họa rất lớn vì lòng căm hờn
của các Bộ lạc đối với ta to như biển cao như núi, ở hậu lai họ chờ phước phần
cũng như thế lực ta suy yếu, hay nội bộ chia rẽ lủng củng. Thời cả trăm Bộ Lạc
ấy nổi lên đòi tự trị chống phá lật đổ thể chế độc tài độc trị của ta.
Vì thế muốn xây dựng lên một cường quốc
không có một đất nước nào đụng đến hay xâm lược được. Thời con đường xây dựng
khai sanh lên cường quốc đó. Phải đi theo một lộ trình Văn Hóa Chính Nghĩa liên
kết liên minh sức mạnh cả trăm Bộ Lạc chung nhau bảo vệ Quyền Con Người Nhân
Quyền. Lấy Dân Làm Gốc Dân Chủ. Nhà nước cường Quốc đó phải là Nhà Nước Pháp
Quyền, nhà nước Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp trên hết. Nhà Nước của Dân do
Dân vì Dân. Công Bằng Bình Đẳng. Cả trăm Bộ Lạc sống trong ngôi nhà chung Nền
Quốc Đạo. Thời lo gì dân không giàu nước không mạnh độc lập lâu dài.
Nếu chúng ta xâm lược cả trăm Bộ Lạc. Thuận
Ta thời sống chống ta thời chết tàn sát họ, thời chúng ta nào phải con người,
mất hết lương tri lương tâm còn ác hơn loài Quỉ dữ. Nếu nhân từ để chúng sống
sót, thời chúng ta tự nuôi tai họa về sau, chẳng khác nào chúng ta mài đao để
đó chờ ngày con dao ấy giết mình, nội giặc là một thứ giặc khó trừ, khó đề
phòng, khó lường. Nếu chính sách thông thoáng thời vô tình nuôi các thế lực
phản động nhanh lớn, chúng sẽ lật đổ chúng ta. Còn chính sách, giáo điều, điều
lệ hà khắc, cấm đón trói buộc dự sống con người dậm chân tại chỗ không những
không phát triển được xã hội, lại còn dẫn tới đói nghèo lạc hậu, đời sống khốn khổ, trăm thứ giặc sanh ra. Giặc
Dốt, Giặc Đói, nổi giặc khắp nơi thời Độc Lập kéo dài được sao.
Tổ Quốc non sông dù có lớn đến đâu, dân có
đông đến đâu, cũng chỉ là bãi chiến trường, tranh giành quyền lực lật đổ nhau,
chém giết nhau mà thôi máu đổ khắp nơi thây phơi chật đất. Xâm lược chiếm đoạt
đất đai thôn tính các Bộ Lạc hay các nước nhỏ lập lên cường quốc, chiếm hữu nô
lệ lập lên xã hội, thống trị cường hào ác bá, độc tài độc trị. trước mắt là có
nhưng sau đó thời như không, vì dùng bạo lực lập lên cường quốc chiếm Thiên Hạ
nhưng không được lòng Thiên Hạ, đó là mối tai họa biến loạn về sau Độc Lập khó
mà lâu dài. Một lớp vỏ bạo lực bó buột Thiên Hạ về một mối, khác nào quả pháo
chờ cơ hội là nổ, có Thiên Hạ trong tay nhưng lòng Thiên Hạ đã mất, Thái Bình
Độc Lập ắt chẳng đặng bao lâu, non sông Tổ Quốc sẽ đổi ngôi thay chủ. Lập lên
một Cường Quốc với bao tìm ẩn nguy cơ như thế, thời lập lên để mà làm gì. Mở
màng cho hàng loạt tham quan ra đời làm lên bao chuyện xấu xa tội lỗi. Đục
khoét của nhà nước, vơ vét của dân tệ nạn xã hội khắp nơi.
Cơ nghiệp lập lên bằng bạo lực, không chân
chính, rốt cuộc rồi cũng bị các thế lực phản loạn, từ trong giai cấp bị trị,
giai cấp nô lệ nổi lên đánh bại. Cả đời cực khổ chiến tranh gồm thâu thiên hạ
nhưng rốt cuộc được những gì, mang tiếng ác cũng như gieo hậu quả về sau. Ngôi
vị Quốc Vương dùng bạo lực chiến tranh cướp lấy tạo lập lên chỉ là con Cáo già
đầu trộm đuôi cướp tham lam tàn bạo, có hay ho gì, không khéo sa đọa xuống Địa
Ngục linh hồn khổ mãi nữa đằng khác.
Thái
Tử nói:
Chỉ có một con đường duy nhất chinh phục
Thiên Hạ, bằng con đường liên minh các Họ Tộc, Bộ Tộc, Bộ Lạc, liên minh các
nước thành một khối thống nhất theo một con đường Văn Hóa chính nghĩa, không ngoài quyền con người và lấy dân làm
gốc Nhân Quyền Dân Chủ lập lên một đất nước văn minh cường quốc Công Bằng
Bình Đẳng ai ai cũng đươc sống trong Quyền Tạo Hóa ban cho. Tất cả chung trong
một nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, quyền sở hửu cá nhân, quyền sở hửu tập
thể được thể hiện đầy đủ.
Cuộc sống mà ai ai cũng có quyền làm chủ xã
hội, làm chủ non sông Tổ Quốc, làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp ,Đạo pháp truyền
thống anh linh dựng nước và giữ nước. Và cũng chỉ có Đạo pháp, Hiến pháp, Luật
pháp mới thật sự đem lại cuộc sống tự do ấm no hạnh phúc.
Ở nhà nước Pháp Quyền: Nhân Quyền Dân Chủ. Vương,
Quan chỉ là đầy tớ trung thành của Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp công bằng
bình đẳng xã hội. Bảo vệ Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp. Thi hành Đạo pháp,
Hiến pháp, Luật pháp, thực thi Công Lý Bình Đẳng, bảo vệ ích lợi chung, cũng
như lợi ích lợi riêng của mỗi người dân.
Xã hội Công Bằng văn minh, là xã hội Thần
Thánh. Xã hội chân thiện tiến tới hoàn mĩ. Xã hội Thiên Đàng cực lạc trần gian.
Quốc
sư Thục Lục càng lúc càng sáng mắt ra hội ngội được chân lý trị quốc an dân lập
quốc Chính Nghĩa trong lòng vô cùng vui mừng. Nghĩ có thể Thái Tử sẽ làm nên
nghiệp lớn và cũng chỉ có Bậc Đại giác ngộ mới tìm ra hướng đi Thần Thánh nầy.
(Và thật vậy 79 năm dựng nước Văn Lang
2.622 năm thế hệ con cháu của Vương, Quan kế tục giữ nước, xây dựng lên cuộc
sống mỗi ngày mỗi thêm phồn thịnh tự do ấm no hạnh phúc. Cả dựng nước và giữ
nước thời Hùng Vương là 2.701 năm, trên khắp thế giới thời đó cũng như thời
nay chưa có đất nước nào kéo dài Độc Lập dài đến thế). Chỉ có nền Văn Minh Hiếp
Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, Quốc Đạo Văn Lang mới được như vậy).
Đây
nói về vị Quốc sư tài năng Thục Lục, tự biết mình không còn đủ tài để dạy Thái Tử
nữa nên nói với Quốc Vương Kinh Dương Vương rằng:
Khắp nước Xích Quỉ này không còn ai là đủ
tài dạy Thái Tử nữa, và thật vậy thật ra tôi cũng chỉ là học trò của Thái Tử
mà thôi, vì Thái Tử không phải người phàm hay Thánh Thần Đầu Thai mà là Chí Tôn
Thiên Đế đầu thai. Đắng thừa hành di chí Cha Trời. Đấng Cứu Thế. Hàng triệu năm
mới xuất hiện. Nghe Thái Tử thuyết giáo tôi đã ngộ ra một điều, con người có
quả tim Nhân Loại, mới có đủ khả năng diều dắc Nhân Loại mà thôi. Còn quả tim
vì quyền lực vì danh lợi vì cái riêng ta quá lớn, thời khó mà dìu dắt nhân loại
đến bờ hạnh phúc. Cũng từ đây tên tuổi Thái Tử vang lừng hơn nữa, làm chấn
động nước Xích Quỉ cùng các nước lân cận.
Kinh
Dương Vương tuy tuổi đã cao nhưng Tiên phong Đạo Cốt vẩn trẻ trung uy nghi. Nay
nghe Quốc sư luôn luôn miệng khen Thái Tử, đề cao tột bực, thời lấy làm vui vẻ
sung sướng không gì bằng, cuộc đời Đế Vương coi như là thỏa mãn.
PHẦN THƯA HỎI
Hỏi:
Thế nào là Họa, Phúc của xã hội?
Đáp:
Con người là chủ của xã hội vì vậy họa hay phúc đều do con người, xã hội Thiên
Đàng hay xã hội Địa Ngục, điều do con người quyết định. Nếu chúng ta biết hướng
Thiện, kết tụ duyên lành, truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn, Đạo pháp truyền thống
dân tộc, Hiến pháp Công Lý xã hội. Luật pháp xã hội nuôi dưỡng tinh thần Đạo
Đức dân tộc, đến tận mỗi người dân, nân cao trình độ nhân thức Đạo Đức xã hội.
Thời tương lai xã hội chúng ta mới có kết quả tốt đẹp, xã hội Chân Thiện Hoàn
Mĩ. Còn nếu chúng ta tán tận lương tâm làm lên bao điều tội lỗi, xem thường
Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp truyền thống anh linh xã hội. Phá hoại kỷ cương
phép nước nhận giặc làm Cha. Thời chúng ta tự tạo ra cho xã hội chúng ta một xã
hội đen tối, xã hội nhà tù, xã hội Địa Ngục. Sống chẳng yên mà chết cũng chẳng
đặng yên.
Hỏi:
Thế nào là nhận thức Bình Đẳng.
Đáp:
Đến với Cội Nguồn, hòa mình vào dòng đời xã hội, tuân theo và lam theo Đạo pháp
truyền thống dân tộc, Hiến pháp, Luật pháp xã hội thời nhận thức được ngay sự
Bình Đẳng con người và sự Bình Đẳng xã hội. Nhân Loại ai ai cũng như nhau, từ
một gốc mà ra, tất cả đều là Con Rồng Cháu Tiên, mỗi Tiểu Linh Hồn từ Đại Linh
Hồn vũ trụ tạo ra, ví như nước sanh ra bọt nước, tất cả bọt nước đều Bình Đẳng
vì tất cả bọt nước từ nước mà ra. Xã hội Bình Đẳng là xã hội Đạo pháp công
bằng, Hiến pháp công bằng, Luật pháp công bằng, quả tim Công Lý xã hội, không
thiên vị ai, không thân cận ai, chung cùng một nhịp đập Bình Đẳng, vì vậy quyền
Bình Đẳng, nhân quyền của con người được bảo vệ, tôn trọng thể hiện đầy đủ, bất
khả xâm phạm. Nếu xâm phạm là trái ý trời. Đối với kẻ chuyên quyền Độc Quyền
Độc Tài tàn bạo, thời coi như chính họ đã đánh mất nhân quyền Bình Đẳng của
chính họ sẽ bị Cộng Đồng xã hội nhân quyền lên án.
Hỏi:
Thế nào là quan hệ tôn trọng Chủ Quyền Độc Lập?
Đáp:
Không xâm phạm lẫn nhau về thuộc Địa cũng như về chính trị, đối đãi nhau trên
phương diện Bình Đẳng, tôn trọng lẫn nhau, làm bạn đối tác kinh tế hai bên cùng
có lợi. Tôn trọng bạn có nghĩa là tôn trọng mình, xâm phạm chủ quyền nước bạn
là tự đánh đổ chủ quyền nước mình.
Hỏi:
Sao gọi là Khôn? Sao gọi là Dại?
Đáp:
Người khôn không bao giờ nghịch lại Thiên ý của Trời, không bao giờ chống phá
Đạo pháp truyền thống dân tộc, chống phá Hiến pháp, Luật pháp công bằng xa hội,
vì chống phá như vậy nhất định sẽ sa chân vào ác Đạo, Quỉ Đạo, súc sanh Đạo,
Địa Ngục Đạo, thời coi như đã sa vào Thiên La Địa Võng trùng trùng tai họa. Những
kẻ tự cho mình siêu đẳng nhưng lạc mất Cội Nguồn, khác nào con thơ Lạc Mẹ Lạc
Cha, chơi vơi giữa chốn hồng trần lặng hụp trong bùn nhơ cặn bã xã hội.
Hỏi:
Hiến pháp có mấy loại?
Đáp:
Hiến pháp xã hội có nhiều loại nhưng có ba thứ Hiến pháp được thông dụng ở đời.
1:
Là Hiến pháp dựa trên quân Chủ lập Hiến tạo ra.
2:
Là Hiến pháp dựa trên Dân Chủ lập Hiến tạo lập ra.
3:
Là Hiến pháp căn cứ theo Văn Hóa Cội Nguồn truyền thống dân tộc. Nhân quyền,
Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng. Công ước xã hội. Chủ quyền Độc Lập. Hiến pháp
dựng nước và giữ nước nhà nước Văn Lang. Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Một Hiến pháp mà
không một đất nước nào có, ngay cả thời văn minh hiện đại bây giờ. Hiến pháp
của Chủ Nghĩa Đại Đồng Công Bằng Bình Đẳng. Tình nòi giống, nghĩa Đồng Bào chung
nhau một Cộng Đồng xã hội.
*********
Hết
Phần 1 chương 7 mời xem tiếp phần 2 chương 7 Long Hoa Mật Tạng Kinh.
Vinh thay Nam
Việt, Việt Nam
Trổ hoa phồn thịnh đăng đàn công danh
Gió xuân tràn ngập quê hương
Non sông Tổ Quốc bình yên đời đời
Rồng Tiên tỏa sáng ngời ngời
Năm châu bốn biển hướng về Việt Nam.
CHƯƠNG 7
PHẦN 2
NỖI LO XA KINH DƯƠNG VƯƠNG
Một
hôm Kinh Dương Vương cùng con trai là Thái Tử Hùng Lan dạo chơi nơi chốn hoa
viên, để thử tài Thái Tử cũng như xem con có ý niệm gì tương lai non sông Tổ
Quốc khi tình hình mỗi ngày mỗi thêm phức tạp diễn biến xấu.
KINH
DƯƠNG VƯƠNG hỏi:
Này con. Con nhận xét thế nào về nước Xích
Quỷ ta, mạnh yếu ra sao? Có phải là một đất nước Hùng Mạnh, rộng lớn, có đất nước
nào hơn đất nước ta không? Cha muốn nghe ý kiến nhận xét của con.
Thái
Tử thưa Cha:
Nước Xích Quỉ ta vốn nổi tiếng từ lâu. Một
đất nước vừa giàu có vừa hùng mạnh, không có một Vương Quốc nào xa gần sánh
kịp. Với nền văn minh lúa nước, văn minh thông Điệp Hội Họa. Đất đai rộng lớn
màu mở phì nhiêu, dân đã đông, tướng đã giỏi, lại thêm ấm no Thịnh Trị hàng
nghìn nghìn năm. Nước Xích Quỉ ta không những mạnh về tinh thần mà còn mạnh về
vật chất. Hiện nay và trăm năm tới, chưa có đất nước nào hơn được đất nước ta
đâu. Tuy rằng xung quanh nước Xích Quỷ ta chiến tranh, tranh giành thuộc địa đã
nổ ra càng ngày càng dữ dội, cảnh cá lớn nuốt cá bé xảy ra thường xuyên ở các
Bộ Lạc. Lại thêm ở bên kia bờ Bắc, Bắc sông Trường Giang đã hình thành lên
nhiều Vương Quốc hùng mạnh, gần theo kịp Vương Quốc ta. Và nghe đâu các Vương
Quốc hùng mạnh ấy có ý dòm ngó nước ta, đâu cũng là mối lo cho nước ta về sau.
Đất đai màu mở với hai nền văn minh độc bá
thiên hạ, nền văn minh lúa nước, nền văn minh giao tiếp hội họa là miếng mồi
ngon cho bao kẻ tham lam đầy dã tâm, tính mưu tính kế, có cơ hội là nuốt nước
Xích Quỷ ta trong tương lai là điều không tránh khỏi.
Nước Xích Quỷ ta tuy rộng lớn nhưng không
phải là tường đồng vách đá, khó mà ngăn chặn được lòng tham của con người, nhất
là con người đã biến thành Lang Sói ác Quỉ.
Trước tình thế dù cho con Hổ to lớn mạnh đến
đâu mà xung quanh con Hổ toàn là Cáo Sói, đầy mưu mô xảo quyệt. Một con chúng
không làm gì được nhưng cả bầy háo chiến tấn công con Hổ làm cho con Hổ kiệt
sức, cuối cùng con Hổ cũng bị hạ gục. Chúng giành nhau ăn thịt mỗi con mỗi miếng,
thời còn gì nước Xích Quỷ ta. Miếng mồi hấp dẫn, họa phúc khó lường, một đất
nước quá béo bở, không lo xa cũng không được và con cũng đã tính tới điều
này, trong tương lai nhưng con vẫn chưa tìm ra cách đối phó.
KINH
DƯƠNG VƯƠNG nhìn con đầy thương yêu hết lòng khen ngợi, con tuy còn trẻ nhưng
đã biết lo xa, phòng bệnh hơn chữa bệnh, chủ động vẫn hơn là bị động. Không thể
tới đâu hay tới đó, nước tới chân mới nhảy. Người giỏi cờ cũng phải tính trước
vài ba nước đi. Nhà kinh tế, chính trị, quân sự tài, phải tính trước 10 năm 20
năm thậm chí cả 100, 1000 năm.
*********
Hết
Phần 2 chương 7 mời xem tiếp phần 3 chương 7 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Bộ kinh
thuộc hàng tối cao Đại Thừa. Bộ kinh không những tối cao của sự linh thiên. Mà
còn là tối đạo luật xã hội cũng như đạo luật vũ trụ. Chỉ cần hiểu một câu một
chữ trong kinh thời cũng đã trang bị cho
mình đi tới con đường vinh quang. Huống chi khen ngợi yêu mến Long Hoa Mật
Tạng. Thời coi như đã chuyển đổi số mạng, không khác gì cá Chép hóa Rồng, không
bao lâu hiển Thánh ngay tại trần thế.
CHƯƠNG 7
PHẦN 3
DUY VẬT DUY TÂM
KINH
DƯƠNG VƯƠNG vẫn giữ một thói quen là giữa tháng đến ngày rằm Trăng tròn đến lầu
vọng Nguyệt để ngắm Trăng nghiền ngẫm Đạo Pháp tu thiền luyện khí. Lần này có
khác Kinh Dương Vương dẫn theo Thái Tử, hai cha con Kinh Dương Vương vừa đi vừa
nói chuyện. Thái Tử là người nhạy cảm, lại hay chú tâm quan sát cảnh vật. Thái
Tử nghĩ mới trong nháy mắt, mọi cảnh vật hầu như thay đổi hoàn toàn. Mặt Trời
vừa lặng, màn đêm buông xuống rất nhanh, Lâu đài Cung Điện, cảnh vật non sông
ngập chìm trong màn đêm hết thảy.
Cảnh
chiều tà nhìn quê hương Tổ Quốc xinh đẹp làm sao, còn giờ đây quê hương Tổ Quốc
chỉ là màn đen u tối, sáng và tối hai cảnh giới khác biệt nhau. Cảnh Thiên Đàng
và cảnh Địa Ngục. Một cảnh giới đầy sức sống muôn màu muôn sắc đẹp làm sao,
người thi nhau thọ hưởng, chim thi nhau ca hát, Thú Cầm gầy tình gầy bạn, cỏ
cây khoe trái, khoe hoa. Lũy tre, đồng ruộng mái lá nhà tranh rộn tiếng cười,
cánh Cò trắng Lã lượng bay vui, đàn Bò, đàn Trâu vui ngúc ngoắt. Mục Đồng thổi
sáo cánh Dều bay, cảnh quang vui đẹp tâm Hồn đầy sức sống.
Còn
cảnh tối mê lầm lạc họa tai bay. Nhìn cảnh đêm đen Thái Tử cảm thấy nổi buồn xa
xăm, cô đơn lạnh lẻo như đang ở cõi Âm Cung. Như ẩn chứa bao điều tai họa chẳng
lành thầm bí. Phải chăng cõi nhân gian là cánh cửa để bước vao cõi Thiên Đàng,
cũng như cõi Địa Ngục âm phủ. Phải chăng sáng và tối đã nói lên một điều. Ánh
sáng Chính Nghĩa tắc đi không còn, thời u minh bóng tối trùm lấy nhân gian như
báo hiệu chiến tranh sẽ xảy ra, mở rộng lan tràn khắp Địa Cầu. Ánh sáng Tâm
linh Chính Nghĩa đã tắc, thời thế giới Cáo Sói Rắn Rít hiện ra, nhân loại đi
vào đại nạn khốn khổ, cuộc sống đe dọa từng ngày.
Thái
Tử chìm đắm trong suy nghĩ, thời ánh Trăng cũng đã lên từ lúc nào, ánh Trăng
êm dịu hiền từ như người Mẹ quê hương ôm lấy những người con lạc lỏng trong đêm
tối. Ánh Trăng chiếu xuống lầu đài Cung Điện sơn phết một màu bạc nhưng cũng
để lại loan lổ những chỗ đen tạo ra do vật cản ánh sáng. Những cảnh tượng loan
lổ chỗ đen ấy như nhắn nhủ với con người rằng. Thế lực đen tội ác ẩn mình sau lớp thiện, ánh Trăng không
thể diệt nỗi chúng, và chúng cản mình che khuất ánh Trăng để bóng đen tồn tại
hiện ra. Và chỉ có ánh Mặt Trời thời chúng mới chịu tan biến hoặc ẩn mình nơi
hang cùng ngõ hẻm.
KINH
DƯƠNG VƯƠNG nhìn Thái Tử lúc nào cũng trầm tư như vậy. Liền buông tiếng cười
thở dài, tiếng thở dài của người Cha đã đánh động tư duy suy tưởng làm cho Thái
Tử giật mình, mới hay mình đã đến lầu vọng Nguyệt từ lúc nào.
Kinh
Dương Vương nắm tay Thái Tử như truyền hơi ấm nói lên rằng:
Có Cha đây, Cha sẽ là ngọn Thái Sơn che chở
cho con lúc Đông về.
Thái
Tử được Cha dắt lên lầu vọng Nguyệt, cặp ghế Rồng ghế Phụng như cũng đã biết
mình có bổn phận nâng đở Cha con Kinh Dương Vương yên nghỉ hòa mình vào cảnh
giới Đêm Trăng. Xa xa tận chân Trời vừng hào quang dịu mát phát ra từ vần Trăng
tròn trịa nhô lên khỏi khóm tre già. Cảnh vật thi nhau im lặng tận hưởng ánh
Trăng êm ã, sau một ngày vật vã với cái nắng chang chang. Ánh Trăng đến ánh
Trăng đi không mang theo sự vui buồn của nhân gian, vô tư trong sáng chẳng
nhiễm chút bụi trần nào cả.
Nhưng
con người thì khác hẳn, sanh ra ở đời đắm chìm gian ác, tham lam ganh gét, hận
thù làm tâm Hồn bẩn nhơ, làm hôi hám xã hội. Nhưng rốt cuộc thời được những gì,
tất cả chỉ là con số 0.
Kinh
Dương Vương lại nghe tiếng thở dài Thái Tử. Sự việc ở đời rốt cuộc rồi cũng
thế, cuộc đời khác nào vần Trăng, lúc thời mờ lúc thời tỏ, khi tròn khi khuyết,
khi đầy khi vơi. Thiên Nhiên vẩn còn chơi trò biến ảo, huống chi là cuộc sống
con người luật tuần hoàn cứ lặp đi lặp lại, hết mưa rồi nắng, hết ngày tới đêm.
Xuân Hạ Thu Đông cứ luân phiên chuyển hóa, hết xuân rồi lại tới xuân, xuân đi
rồi xuân lại về. Chỉ có không gian lúc nào cũng rộng lớn vẩn thế, không đi
không đến như như tự tại. Tuy ở sát người thế mà không mấy ai với tới cả.
Thái
Tử nghĩ chốn nhân gian này khó tìm ra hạnh phúc vĩnh cửu vì trần gian chỉ là
nơi cõi tạm. Những thứ hạnh phúc tạm thời, chóng đến rồi cũng chóng đi, chóng
sum hợp rồi cũng chóng chia ly. Mọi sự ở đời hể có gieo thời có hưởng, họa hay
phúc đều do con người triệu nó đến, tất cả đều có căn có cội.
Kinh
Dương Vương nhìn con trầm tư suy nghĩ không hiểu con ta nghĩ những gì, sao lúc
nào cũng trầm lặng suy tư như vậy, khổ cho con ta quá.
Thái
Tử bổng lóe lên ý nghĩ liền hỏi Cha:
Cha có từng nghe đến Quả tim Nhân Loại chưa?
Cha có từng nghe đến bất chiến tự nhiên thành chưa?
Kinh
Dương Vương vô cùng kinh ngạc, vì đây là lần đầu tiên nghe câu hỏi lạ, lạ đến
nổi Kinh Dương Vương phải ngớ người ra.
Kinh
Dương Vương nói:
Con hỏi gì lạ vậy ở đời ai không có quả tim.
Thái
Tử trả lời:
Thưa Cha! Không phải con hỏi Quả tim con
người mà ai ai cũng có, mà con nuốm hỏi đến Quả Tim xã hội. Quả Tim truyền
thống. Quả Tim chính nghĩa của chủ nghĩa.
Kinh
Dương Vương nghe con nói như thế thời càng thêm kinh ngạc không biết trả lời
sao.
Thái
Tử nhìn Cha nói:
Quả Tim Nhân Loại là Quả tim vì người mà
sống, không phải vì mình mà sống. Quả tim vì mình mà sống ai ai cũng có. Còn
Quả Tim vì nhân loại mà sống thời rất hiếm. Quả tim xã hội là Quả tim của mọi
người, của mọi tần lớp nhân dân, Quả Tim
Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp khi quả tim ấy đập lên thời toàn xã hội như
được hồi sinh trở lại, đời sống xã hội tươi vui, đâm chồi nẫy lộc đơm hoa kết
trái. Thái bình Độc Lập tự do hạnh phúc. Quả tim ấy mang hơi thở truyền thống
Cội Nguồn dòng máu Cha Ông làm cho Con Cháu hiện tại đoàn kết muôn người như
một. Làm cho nhân loại đâm chồi Chính Nghĩa, nở hoa tự do, kết quả hạnh phúc.
Nếu xã hội non sông Tổ Quốc nào toàn dân đều chung sống cùng một quả tim ấy.
Quả Tim công bằng bình đẳng văn minh, thời còn lo gì không sống trong cảnh thái
bình an lạc. Khi nhân loại có Quả Tim vì người không vì mình, mỗi nhịp đập của
quả tim ấy là mỗi lần đem mùa xuân đến cho cuộc sống xã hội, đơm hoa kết trái
sang giàu làm đẹp cho quê hương Tổ Quốc non sông.
Kinh
Dương Vương nghe con nói như thế, thời kinh ngạc đến sửng sốt hỏi lại:
Có Quả tim đó thật sao.
Thái
Tử nói:
Thưa Cha! Chỉ có Quả Tim vì Nhân Loại mới
cứu nổi Nhân Loại. Quả tim của sự bất chiến tự nhiên thành. Quả tim Nhân Loại
là quả tim công bằng bình đẳng không
thuộc ở cá nhân riêng mình mà quả tim chung cho toàn xã hội. Nhân loại khổ là
Quả tim ấy khổ, nhân loại vui là Quả tim ấy vui. Quả Tim luôn phục vụ cho cuộc
sống nhân loại con người.
Kinh
Dương Vương nhìn Thái Tử đầy vẻ thương yêu nói:
Không có Quả tim đó đâu con. Hiện nay trên
toàn thế giới ngoài quả tim con người ra
những bậc Vương Chúa họ còn có Quả Tim độc tài độc trị, làm gì có quả
tim nhân loại.
Thái
Tử nói:
Thưa Cha! Làm Quốc Vương mà chỉ biết về
mình, gia đình mình, dòng Họ mình, Tổ Quốc của mình thời vị Quốc Vương ấy chưa có
Quả tim Nhân loại xã hội. Lúc nào cũng nói vì dân vì nước, vì nhân loại thế
giới nhưng thật ra tất cả cũng chỉ là cũng cố quyền lợi cho riêng của mình mà
thôi.
Thái
Tử lại nói:
Vị Quốc Vương có Quả tim Nhân Loại, thời dân
chúng chính là máu thịt của người. Nhân loại là anh em một nhà Dân chúng bị tổn
thương thời chính ngài tổn thương, nhân loại khốn khổ thời người khốn khổ. Người
có Quả tim vĩ đại ấy cứ mỗi nhịp đập là mỗi công bằng văn minh đem lại cuộc
sống yên bình cho nhân loại.
Kinh
Dương Vương như chợt hiểu nói:
Con muốn nói đến Quả tim của Chuyển Luân
Vương sao ? Chỉ là huyền thoại thôi con.
Thái
Tử nói:
Không phải huyền thoại đâu Cha. Những ai hết
lòng thương yêu nhân loại, thương yêu dân chúng như chính thương yêu bản thân
mình người đó chính là Chuyển Luân Thánh Vương rồi. Muốn thế giới yên bình Cha
ạ, chỉ có Quả tim Chuyển Luân Vương xuất hiện thời nhân loại mới được giải cứu
thoát khổ.
Kinh
Dương Vương nói:
Chuyển Luân Vương chỉ là truyền thuyết không
có thật đâu con. Không có cảnh bất chiến tự nhiên thành. Lập lên đất nước Tổ
Quốc mà không cần tranh giành Quyền lực, không cần đụng đến gươm Đao giáo mác,
chỉ có nụ cười và lời nói thay cho máu đổ đầu rơi không đánh mà thắng Thái Bình
mãi mãi là chuyện chỉ có trong mơ mà thôi.
Nếu quả thật có Chuyển Luân Vương xuất hiện
thời bấy giờ, cái thời mà mạnh được yếu thua thắng làm Vua thua trở thành nô lệ
thời Quả tim Nhân Loại Chuyển Luân xã hội ấy cũng đành bó tay không bao giờ
dập được ngọn lửa tham lam tàn bạo đang bùng cháy dữ dội khắp Vương, Chúa đất
nước, lại nữa vì trình độ dân trí hiện nay quá Lạc Hậu, lại bị các Quả tim ác
Quỉ độc tài độc trị thống trị rồi, không có cảnh tự do mưu cầu hạnh phúc đâu.
Hiện nay vận mệnh Quốc gia, non sông Tổ Quốc
phải hùng mạnh có người chèo lái vững vàng, vì tình thế nhân loại hiện nay đang
nỗi cơn tham lam tàn bạo sóng bạo lực dữ dội, mình không đánh họ, thời họ cũng
sẽ đánh mình.
Kinh
Dương Vương lại nói:
Từ thời Hồng Đế tới thời Viêm Đế Thần Nông
xuống tới thời Kinh Dương Vương Ta, kéo dài hàng triệu triệu năm với truyền
thống lâu đời ấy, tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng không có một dân tộc
nào sánh kịp nhưng không có gì là tuyệt đối mãi. Gần trăm năm nay, tình thế có
phần chuyển đổi, từ môn phái độc tài Thần giáo chuyển sang phong kiến độc tài Thần
giáo, giáo Điều và Điều lệ cũng theo đó vượt lên chặt chẽ hơn. Cùng lúc ấy
phái Duy vật giáo cũng nổi lên làm chao đão tình thế sự của nhiều Vương Tộc
trong đó có nước Xích Quỷ ta.
Duy vật giáo suy tôn khoa học Duy Vật, luận chứng
họ ca ngợi nền văn minh lúa nước cũng như nền văn minh hội họa giao tiếp thông
điệp của ta, đưa nhân loại chuyển sang giai đoạn mới cũng như ca ngợi nền văn
minh Tơ Tằm dệt lụa ở bên kia bờ Bắc sông Trường Giang, đem lại thật sự hửu ích
cho con người. Còn phái Thần giáo thời chủ thuyết Tôn thờ Thần Linh, vì Thần
Linh là chủ của thế giới phàm trần và bùa chú là một minh chứng hửu hiệu. Những
ai chống trả lại liền bị Thần Linh giết chết.
Hai giáo phái ấy mỗi ngày một lớn mạnh làm
chao đảo tình hình phương Đông. Từ môn phái độc tài Thần giáo chuyển sang phong
kiến độc tài Thần giáo, trường phái Duy vật bị phong kiến độc tài Thần giáo
đánh bại. Nên Đại đa số học giả giáo sĩ phái Duy vật không còn trụ vững nơi phương
Đông. Làm thuyết khách đi lần về phương Tây. Khi ấy phương Tây, trường phái phù
thủy đang thịnh hành, là chủ nhân của giai cấp, chiến hữu nô lệ và tiến tới
thời cực thịnh của chiến hửu nô lệ nguyên thỉ. Và nghe đâu trường phái Duy vật
được các phù thủy trọng dụng và nổi lên ở phương Tây xưng hùng xưng bá. Giai
cấp phong kiến độc tài duy vật Địa Chủ ra đời ở Phương Tây mỗi lúc một hùng mạnh và
đã lan truyền xuống phương Đông, nhất là ở các Địa phận Trung Đông. Lúc bấy giờ
ở Trung Đông từ phong kiến độc tài Thần giáo đột phá đi lên, có nơi đã chuyển
sang phong kiến độc tài Vua, Chúa thống trị như các nước hùng mạnh xa gần nước
Xích Quỷ Ta. Vì thế giáo điều, điều lệ cũng nâng lên một tầm cao mới.
Phong kiến độc tài Vua, Chúa, khác với Phong
Kiến độc tài Thần Giáo. Phong Kiến độc tài Thần Giáo lấy giáo điều Thần Linh
cai trị dân chúng. Có một số nước lạc hậu mê tín dị đoan.
Phong Kiến độc tài Vua, Chúa lấy ý kiến
triều Thần làm căn bản đưa ra cách thức
trị dân. Có nghĩa Vua Chúa nghe theo Triều Thần, không phải nghe theo giáo điều
Thần Linh, như Phong Kiến độc tài Thần Giáo. Ở khu vực Trung Đông này đang lan
tỏa rất nhanh, hình thành lên nhiều thế lực Phong Kiến độc tài Vua Chúa mở ra
nhiều nền văn minh mới, xóa sổ lầm độc tài Thần Giáo, cạnh tranh với Phong Kiến
độc tài Thần Giáo. Và chiến tranh tranh giành thuộc địa ở khu vực Đông Á này
thảm khốc vô cùng, chiếm hửu nô lệ thảm khốc vô cùng.
Nghe
Cha kể lại sự biến động xã hội, trải qua hàng trăm năm, hàng nghìn năm có thể
còn lâu xa hơn nữa, kiến thức của Cha quả thật hơn người Thái Tử lấy làm khâm
phục. Có lẽ từ nơi người Cha thông thái dày kinh nghiệm này mà mình tìm thấy
cái mình muốn tìm cũng nên vì nghĩ thế nên.
Thái
Tử hỏi:
Thưa Cha có phải con người ngày xưa họ thờ
Cầm Thú như thờ Rắn, thờ Heo, thờ Trâu, thờ Bò, thờ Cọp, thờ Ngựa, thờ Cá, thờ
Cây, thờ Đá có thật không?
Kinh
Dương Vương đáp:
Cần gì thời xưa mà ngay cả thời bây giờ
cũng còn nhiều. Ở thời tiền sử có một số dân tộc lạc hậu, họ thấy loài Cầm
Thú có yêu thuật họ suy tôn là Thần, rồi
tôn thờ cúng bái nghe theo và làm theo những gì Thần Thú, Thần Cầm truyền dạy.
Trở thành cuồng tín dị đoan làm hại cho bản thân, gia đình con cái kéo dài hàng
triệu triệu năm. Nhưng lần lần các dân tộc tiến bộ, nhận thức được con người là
chủ của muôn loài Cầm Thú, không còn sợ các loài Cầm Thú nữa thậm chí còn giết
chết Thần Thú, Thần Cầm, những Thần hung hăng háo sát, không những thế mà còn săn
bắn loài cầm loài thú to lớn để lấy thịt
lấy da phục vụ cho con người, đời sống con người vì đó tiến lên một mức cao
hơn. Nhân Loại tiến bộ, loại bỏ lần tôn thờ Thần Thú, Thần Cầm, chuyển sang giai
đoạn thờ Thần Linh con người khám phá ra các Thần Linh con người là do sự tiến
bộ tu luyện của con người mà ra, Linh Hồn tiến hóa lên các vị Thần như Thần Thổ
Địa, Thần Núi, Thần Sông, Thần Biển, Thần Mưa, Thần Gió, Thần Lửa. Có những
Linh Hồn tu luyện đạt đến đỉnh cao trở thành Thần Mặt Trời làm con của Trời.
Những dân tộc văn minh thờ Thần Mặt Trời như Vương Tộc Long Giao ngoại của con.
Không nói chi đến Vương Tộc Long Giao, mà
ngay cả Vương Tộc Kinh Dương Vương ta cũng thờ Thần Mặt Trời. Thần hạnh phúc,
Thần quyền năng những vị Thần có công hữu ích cho con người những nước lớn ở
Phương Bắc như Đế Minh, Đế Lai, Đế Nghi thờ Thần Mặt Trời. Sự thờ cúng tế lễ
của một số nước văn minh tiến bộ, đời sống con người vì thế phát triển. Các
Triều Thần của nhiều nước cũng theo đó mà phát triển văn minh hơn. Sự tôn
phong sùng kính lạy các Thần Linh con người cũng đi vào trật tự kiến lập lễ
nghi, lễ nghĩa, lễ giáo, lễ vật đi vào đời sống xã hội con người. Nhân phẩm con
người nhận thức theo đó ngày càng thiết thực phong phú hơn phân biệt trở thành
Phong Kiến độc tài Thần Giáo, tiến tới Phong Kiến độc tài Vua Chúa. Đi vào trật
tự, Quân, Dân, Cha Con, Chồng Vợ, Họ Tộc, xốm làng, xã hội Tổ Quốc vì thế nhân
luân rõ ràng hơn cụ thể hơn. Có thể nói giai đoạn Phong Kiến độc tài Thần giáo
đã đến thời cực thinh. Và chuyển sang Phong Kiến độc tài Vương, Vua, Chúa.
Trường phái Duy vật tuy ra đời sau Thần giáo
hàng triệu năm, hiện Thân của chủ thuyết chính
trị độc tài độc trị, đối lập lại giáo
trị độc tài độc trị Thần giáo, nói chung trường phái duy tâm Thần
giáo.Trường phái Duy vật biện chứng đều rất lợi hại vì có cái lý đứng vững của
nó làm cho con người dễ bị thuyết phục nghe theo làm theo.
Có lần Cha cho mời hai trường phái đến để
nghe thuyết giáo. Chủ thuyết Thần giáo phát triển xã hội theo hướng tinh thần,
giáo dục con người theo giáo Đạo lời dạy của các Đấng Thần Linh.
Chủ thuyết Duy vật giáo, phát triển xã hội
theo đường lối phát triển đường hướng khoa học, đất nước nào làm chủ khoa học
nhiều, thời đất nước đó sẽ thống lĩnh thiên hạ.
Có một điều con nên hiểu, phái Duy vật là
nhốm phái tôn thờ các nhà phát minh khoa học, Họ không phải là nhà khoa học mà
họ chỉ là con chiên sùng kính khoa học mà thôi. Cũng như các phái Thần giáo,
họ không phải là các vị Thần mà Họ chỉ là con chiên sùng kính các vị Thần mà
thôi. Xét cho cùng hai trường phái này chỉ là hai trường phái Duy Tâm và Duy
vật, họ chỉ là cái vỏ của Thần Linh và các nhà khoa học, cái lớp vỏ bọc phô
trương vô cùng lợi hại của hai trường phái thi nhau ăn sâu vào xã hội con người.
Cha là người cẩn thận vì quá hiểu rõ chúng vì chúng chưa phải là các Thần Linh,
cũng như các nhà khoa học. Chỉ là trường phái Đấu Đá nhau cạnh tranh nhau mà
thôi. Cha không tiếp nhận hai trường phái duy tâm, cũng như duy vật. Vì xưa nay
truyền thống Anh Linh dân tộc ta chỉ tôn thờ Thần Mặt Trời con của Trời lấy Đạo
Đức Nhơn Luân Hiếu Nghĩa, tôn thờ Ông, Bà, Cha, Mẹ, Tổ Tiên làm đầu, bảo vệ non
sông Tổ Quốc làm trọng mà Ông Cha Ta hàng nghìn năm xây dựng nên.
*********
Hết
phần 3 chương 7 mời xem tiếp phần 4 chương 7 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật
Tạng là bộ kinh, kinh văn thậm thâm sâu xa vị diệu ẩn tàng không biết là bao
nhiêu là đạo pháp Chính Nghĩa. Ngay thời đại bây giờ cũng khó mà hiểu cho thấu
đáo được. Huống chi là cách đây năm nghìn năm, nếu không được Quốc Tổ truyền
dạy giải thích thời khó có ai hiểu nỗi một câu. Long Hoa Mật Tạng Kinh là bộ
kinh Vua các Bộ Kinh. Bộ kinh không những trị quốc an dân, mà còn trở thành
Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Bộ Kinh không gì quý hơn nữa. Người nào có trong
tay Bộ Kinh nầy, đọc tụng hiểu được kinh văn thời coi như người đó đã tu vô
lượng vô biên khiếp. Chỉ vì một nhân duyên lớn sanh xuống chốn nhân gian. Cứu
nhân độ thế làm cho nhân loại yên bình, cũng như siêu sanh về thượng giới.
Có duyên gặp đặng kinh nầy
Tiêu tan tai kiếp sống đời bình an
Huống chi đọc tụng truyền kinh
Cầu chi đặng nấy ứng linh vô cùng
Hay là biên chép ấn in
Cõi trời sống mãi trường sanh đời đời
Huống chi hiểu nghĩa kinh thời
Lo gì chẳng đặng Thánh, Thần, Phật, Tiên.
HẾT QUYỂN 1.
COMMENTS