QUỐC BẢO CHÂN KINH VĂN LANG CHIẾN SỰ 3 THIÊN ẤN THIÊN BÚT GÒ HỘI ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI 2013 Ng...
QUỐC BẢO CHÂN KINH
VĂN LANG
CHIẾN
SỰ
3
THIÊN ẤN THIÊN BÚT
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI
2013
Nguyễn Đức Thông
QUYỂN 1
LỜI MỞ ĐẦU
Nói
về Quốc Tổ Hùng Vương. Cùng Bách Việt khai dựng lập lên nước Văn Lang hùng mạnh
rộng lớn. Giết chết ba con Yêu Tinh Quỉ dữ. Mộc Tinh, Ngư Tinh, Hồ Tinh, cùng
vô số Tướng Lĩnh Yêu Tinh. Cũng như con cái, cháu, chắt, chút, chít, của ba con
Chúa Tể Yêu Tinh lên đến hàng vạn vạn.
Vì
thế con cháu Văn Lang là mối thù truyền kiếp của chúng có cơ hội là chúng hảm
hại. Không bằng cách nầy cũng bằng cách khác. Nhất là ở các giai đoạn thời kỳ
cuối các thời Hạ Hùng Vương. Thời kỳ mạc pháp Văn Hóa Cội Nguồn không còn. Nền
Quốc Đạo biến mất, các quyền cơ bản con người cũng mất theo. Nước Văn Lang rơi
vào cảnh tối tăm, dân chúng lạc vào tà ma ác đạo.
Nguy
hiểm nhất là Linh Hồn ba con chúa tinh ác Quỷ cũng như con cái cháu chắt của
chúng đầu thai làm người không những ở Phương Bắc Nhà Chu, mà còn đầu thai ở
Bắc Văn Lang, có cơ hội là chuyển xây tình thế hảm hại con cháu Tiên Rồng nhân
loại Đồng Bào nói chung, con cháu Văn Lang nói riêng. Gây ra bao thảm cảnh tan
thương chết chóc chiến tranh loạn lạc cùng khắp. Nhất là cảnh chiến tranh tương
tàn nồi da nấu thịt ở dân tộc Văn Lang. Chúng không để yên cho Bách Việt Văn
Lang hưởng thái bình an lạc nhất là
những cuộc nổi lên nội chiến kinh hồn. Dân tộc Văn Lang con cháu Tiên Rồng, con
dân Quốc Tổ Vua Hùng phải chịu cảnh Đồng Bào nồi da nấu thịt. Ác Quỉ giành lấy
chính quyền biến dân tộc Văn Lang thành dân tộc nô lệ dưới sự dày xéo nanh vuốt
của chúng.
Sức
mạnh của Loài Ác Quỉ là chúng đầu thai làm người Phương Bắc chuyển xây tình thế
xua quân xâm lược Phương Nam. Làm cho đất nước Văn Lang đầu rơi máu đổ. Chiến
Tranh đói nghèo lạc hậu khốn khổ vô cùng. Nhất là sự lừa dối cũng như sự độc
tài độc trị tàn bạo cai trị thảm khốc của chúng.
Có
khi chúng sanh ra trên đất nước Văn Lang. Rồi tạo lên cảnh nồi da nấu thịt. Như
Cha Con Doãn Thường chẳng hạn nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang, biến Bắc Văn Lang
trở thành Trung Thổ Trung nguyên. Nước Văn Lang Bắc Nam chinh chiến. Dân tộc
Bách Việt Văn Lang con cháu Tiên Rồng con dânVua Hùng tàn sát lẫn nhau. Gây ra
cảnh Đồng Bào tương tàn. Cha con anh em, dòng họ chém giết lẫn nhau nhà tan cửa
nát.
Chúng
đầu độc Văn Hóa ảo tưởng, nhất là Văn Hóa mê tín dị đoan, chúng nhập đồng nhập
xác nói ra những điều xàm bậy làm mê muội con người. Lũ ác Quỉ lạm dụng ngôn từ
trau chuốt bóng bẩy đầu độc dân chúng nhất là văn hóa Thần Quyền tôn thờ Thần
Thú, Cầm Thú, Thần Vật làm cho dân chúng
quên Cội quên Nguồn. Quên đi truyền thống Nguồn Cội anh linh Tiên Rồng Dân Tộc.
Làm cho xã hội luôn đi vào hổn loạn xuống cấp đạo đức chỉ biết tranh hơn, tranh
thua hận thù tham lam tàn bạo. Chậm phát triển dẫn đến đói nghèo lạc hậu.
Chiến
tranh truyền miên dân chúng luôn rơi vào cảnh khốn khổ nhiều mặt tinh thần lẫn
vật chất, nhất là về mặt độc tài độc trị hết sức tàn bạo. Với phép thuật thần
thông đa ngôn xảo ngữ của các loài Yêu tinh Quỉ dữ đầu thai chuyển kiếp làm
người chúng gây ra không biết bao nhiêu thảm cảnh chiến tranh nồi da nấu thịt.
Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn, đã đánh lừa được lòng ham muốn của con
người. Đánh lừa được Bách Việt Bắc Văn Lang. Nhất là những giai cấp khốn khổ
chạy giặc từ Phương Bắc di cư sang Bắc Văn Lang. Bọn ác Quỉ Cha Con Doãn Thường
đêm trăm nghìn cái lợi dụ dỗ dân chúng. Lợi thì như núi non biển cả nhưng không
còn cái răng để mà ăn. Vì mất tất cả không những về vật chất mà còn lẫn cả tinh
thần, thậm chí những quyền cơ bản con người như quyền sanh sống, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc không còn. Chỉ biết than trời khóc đất.
Những
loài ác Quỉ sanh ra làm người lợi dụng lòng tin nơi chúng dân. Chúng hiện thân
ra như một đấng con Trời lên ngôi Thiên Tử. Chúng muốn dân chết là chết, cho
dân sống là sống không ai dám cải chỉ biết răm rắp nghe theo tin theo. Nhưng
chúng không hiểu một điều, đã là Thiên Tử con Trời thời không tàn sát sanh linh
nhất là con người. Luôn đem lại sự công bằng bình đẳng cho con người bảo vệ
những quyền thiêng liêng con người mà Tạo Hóa đã ban cho. Những quyền bất khả
xâm phạm.
Thiên
Tử Con Trời thời sống theo Thiên ý Cha
Trời Thiên luật Vũ Trụ không tạo ra cái cảnh nồi da nấu thịt, mà luôn đêm lại
hòa bình thịnh vượng cho muôn dân. Thiên Tử Con Trời không có cảnh đi xâm lược
mà luôn luôn tôn trọng chủ quyền độc lập của nhau hòa hiếu lẫn nhau. Thiên
Tử Con Trời cũng có sự cạnh tranh nhưng
sự cạnh tranh công bằng bình đẳng thi đua tiến hóa vương lên đỉnh cao của thời
đại theo khuôn khổ Hiến Pháp Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính cho phép. Không
phải cạnh tranh hủy diệt lẫn nhau, thôn tính lẫn nhau. Thiên Tử Con Trời không
có cảnh độc tài độc trị độc bá thiên hạ tranh giành thiên hạ, biến thiên hạ vào
cảnh nô lệ, cướp đất đai thuộc địa gây
ra cảnh chiến tranh đầu rơi máu đổ.
Những
kẻ đầy lòng dã tâm tham vọng mưu đồ xưng vương xưng bá không phải Thiên Tử con
Trời, mà chỉ là Yêu Tinh Quỉ dữ đầu thai. Bành trướng tham tàn ác bá độc tài
đọc trị chém giết đồng loại đây chỉ là những kẻ ngụy Thiên Tử tự xưng là con
Trời hầu lừa bịp dân chúng.
Thật
ra những Thiên Tử tự xưng giả hiệu nầy chỉ là những kẻ thắng xưng là Vua thua
cho là Giặc Xem đi xét lại Giặc với vua cũng chỉ là một thứ chẳng khác gì nhau.
Những Thiên Tử tự xưng giả hiệu con Trời
đầy rẫy trong thời đại Phong Kiến. Nhất là thời đại Phong kiến Thần
Giáo. Phong Kiến Địa Chủ, Phong Kiến Vua, Chúa. Nhờ vào phép thuật tu luyện
hàng nghìn năm trở thành đa ngôn xảo ngữ lừa dối con người dẫn con người vào
con đường tối tăm không biết đâu là phải trái Thiện ác.
Như
Cha Con Doãn Thường chẳng hạn sử dụng từ ngữ bóng bẩy lời nào cũng có lợi cho
dân. Để đánh lừa được lòng ham muốn con
người. Biến giả thành chân. Che đậy lớp
võ bọc bên ngoài. Che đậy sự tham lam tàn bạo nanh vuốt của loài ác Quỉ. Chúng
gây ra cho con cháu Tiên Rồng Bách Việt Dân Tộc Văn Lang bao cảnh chiến tranh
nồi da nấu thịt, hết nô lệ nầy đến nô lệ khác, hết thời kỳ khốn khổ nầy đến
thời kỳ khốn khổ khác làm tiêu tan đất nước Văn Lang Từ thời gần cuối Nhà Chu.
Kéo dài cho đến ngày nay hơn hai nghìn năm mấy trăm năm.
Sự
lạm sát của những loài Ác Quỉ giết hại con người quá lớn. Làm kinh động đến các
Tần Trời. Phật - Thánh - Tiên - Thần - Chúa. Vì thương nhân loại Phật, Thánh,
Tiên, Thần, Chúa đầu thai xuống trần. Diệt trừ Yêu Tinh Quỉ dữ trừ hậu họa cho con người. Nhưng diệt được ác
quỉ nầy thời liền mọc ra ác Quỉ khác. Thái bình thịnh trị không được bao lâu
thời chiến tranh loạn lạc trở lại. Làm khốn khổ con cháu Tiên Rồng. Dân Tộc Văn
Lang hết nghìn năm nầy đến nghìn năm khác.
Nhất
là các thời kỳ cuối thời Hạ Hùng Vương. Từ thời thứ 13 Hùng Việt Vương: Tuân
Lang: 569 đến 506 trước công nguyên. Trở xuống đến thời Hùng Duệ Vương: Huệ
Lang thứ 18 cuối thời Hạ Hùng Vương 306. Rồi
đến thời Âu Lạc 258 trước công
nguyên. Khốn khổ kéo dài cho đến tận ngày nay.
Trong
các cuộc chiến tranh xâm lược bành trướng quân thù. Thời chiến tranh xâm lược
Văn Hóa là độc hại nhất Nguy hiểm nhất.
Nhất là thứ Văn Hóa làm cho con người mất đi tự chủ. Mất đi truyền thống anh
linh dân tộc Lạc Cội Lạc Nguồn. Làm cho dân tộc rã rời đoàn kết. Đạo đức xuống
cấp đánh mất lương tâm con người. Làm cho con
người không phân biệt được đâu là đúng sai nữa. Thậm chí anh em tàn sát
nhau mà vẩn cho là đúng, mà còn cho đó là vinh. Cái vinh đáng sợ làm sao một
nhác đao chém xuống anh em vui mừng chiến thắng. Sự sai lầm nào cũng phải có
ngày tỉnh ngộ chấm dứt, sự khô cằn nào cũng phải có ngày đâm chồi nẩy lộc. Dân
tộc Việt Nam khốn khổ bao nhiêu thời vui sướng lại bấy nhiêu.
Văn
Hóa Cội Nguồn xuất hiện thời Chân - Giả, Trắng – Đen, Chính Nghĩa - Phi Nghĩa
sáng tỏ. Mặt Trời Văn Hóa Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời thời nhân loại mới đi
vào ổn định bình yên kéo dài rất lâu có thể nói thế giới nhân loại đi vào cảnh
thiên đàng cực lạc trần gian nói chung Việt Nam nói riêng trong một niềm vui
thái bình thịnh trị an lạc. Trên mảnh đất Địa Long Vũ Trụ hình chữ
S tức là nước Việt Nam Con Cháu
Rồng Tiên sẽ nở hoa Chánh Đẳng Chánh Giác. Tiến tới Chủ nghĩa Thiên Quyền Nhân
Chủ đại đồng Long Hoa hội tụ. Rồng Tiên Tỏa Sáng ra đời. Quốc Tổ Vua Hùng. Dân
tộc Việt Nam. Nước Việt Nam chóa ngời rạng danh khắp cùng thế giới.
Việt Nam chữ S đất phù sa
Nằm giữa Âm - Dương
Cốt Long Hoa
Thánh Địa anh linh
từ muôn thuở
Bừng lên rực rỡ khắp hà sa
Văn Hóa Rồng tiên Đường Chính Nghĩa
Cội Nguồn tỏ rạng Cội Ông Cha
Bổn phận thế thiên hành phụng sự
Thái bình an lạc khắp Âu Ca.
* * *
Sống trên Địa Cốt Long Hoa
Phải là Thiên Sứ cho nhà Rồng Tiên
Trời ban Đất Việt
Linh Thiêng
Tiên Rồng nòi giống uy quyền từ đây.
* * *
Ở
cuối thời đại Kinh Dương Vương. Hùng Vương Quốc Tổ ra đời từ Văn Hóa Phong Kiến
Thần Giáo. Chuyển sang giai đoạn Văn Hóa Cội Nguồn Thánh Giáo. Trong triều nội
Vua không làm theo ý các Triều Thần. MÀ CHỈ LÀM THEO HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO
PHÁP điều hành đất nước. Có nghĩa là xóa bỏ đi Độc Tài Độc Trị không làm theo ý kiến cá nhân, cũng như nghe
Triều Thần mà chỉ làm theo HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. Nền QUỐC ĐẠO bí mật
của Triều Đại Văn Lang. Nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Không truyền xuống
dân, mà chỉ truyền xuống Vương Quan lấy đó để trị dân, dạy dân. Ở vào thời đó
chữ viết còn quá thô sơ lạc hậu. Nên
không thể lưu chép thành Kinh Văn được. Nên dẫn đến tam sao thất bổn HIẾP PHÁP,
LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP, dần dần biến mất. Nước Văn Lang mất đi nền Văn Hiến Quốc
Đạo Văn Lang liền trở về thời Phong Kiến Thần Giáo. Như thời đại Kinh Dương
Vương chẳng khác gì Phong Kiến Thần Giáo, cũng như Phong Kiến Vua, Chúa ở
Phương Bắc kéo dài hơn 10 nghìn năm trong các thời kỳ Phong Kiến.
Nói
tốm lại : Phong Kiến Thần Giáo độc tài độc trị. Phong Kiến Vua Chúa độc tài độc
trị là những lập luận giáo điều của mỗi
cá nhân các Triều Thần mà Vua thường nghe theo và làm theo. Còn Văn Hóa Cội
Nguồn là Văn Hóa Thánh Giáo không dựa trên ý tưởng riêng mỗi người để tâu lên
vua. Mà là nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. THIÊN LUẬT TẠO HÓA không ai có
quyền tự đặc ra hoặc hủy diệt đi. THIÊN LUẬT TỰ NHIÊN VŨ TRỤ chính là nền Quốc
Đạo dân tộc Văn Lang. Mà các Vua Hùng lấy đó thay nhau làm nền tản cho sự trị
quốc. Đã là Thiên Tử con Trời thời phải thuận theo Thiên Luật vũ Trụ, Thiên Ý
Cha Trời sống theo Văn Hóa Cội Nguồn, luôn bảo vệ quyền con người quyền thiêng
liêng Tạo Hóa đã ban cho. Sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng
bình đẳng ai cũng như ai. Không có cảnh độc tài độc trị tốm thâu quyền lực lạm
sát vô tội.
**************
PHẦN 1
Sau
thời Phù Đổng Thiên Vương hơn ba trăm năm mươi năm thời Cha Con Doãn Thường,
nổi lên làm một cuộc chính trị tài tình nuốt trọn toàn bộ Bắc Văn Lang. Bắc Văn
Lang chính là nước Xích Quỷ ở thời Kinh Dương Vương. Cha Con Doãn Thường nổi
lên chiếm lấy Bắc Văn Lang Chia cắt đất nước Văn Lang ra làm hai.
Bắc
Văn Lang Cha Con Doãn Thường cai quản thống trị. Chỉ còn lại Trung - Nam Văn
Lang Hùng Việt Vương. Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương cai quản thống trị
569 đến 506 trước công nguyên. Mở ra thời đại đen tối cho con cháu Tiên Rồng.
Đất nước Văn Lang đi vào cảnh Bách Việt nồi da nấu thịt. Cha Con Doãn Thường
nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng là Việt Vương.
Vì
dân tộc Văn Lang là dân tộc Bách Việt, muốn hợp lòng dân thời Cha Con Doãn
Thường phải xưng Việt Vương, Vua Việt, thời dân chúng bách Việt mới theo về che
chở bảo vệ. Có thể nói Cha Con Doãn Thường rất thông minh lại có mưu đồ lớn
nuốt trọn nước Văn Lang lật đổ thời đại Hùng Vương, thay thế thời đại Việt
Vương. Vì thế Hùng Việt Vương, Tuân Lang đời thứ 13 Hạ Hùng Vương khốn đốn
trước sự khôn ngoan của Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang. Mà
không cách gì lấy lại Bắc Văn Lang được.
Cha
Con Doãn Thường có nguồn gốc Ông Cha từ Phương Bắc di cư đến đất Cối Kê Bắc Văn
Lang sanh sống trải qua 30 đời. Đến đời Doãn Thường thời dòng họ Vũ nổi lên
chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng Việt Vương, không phải dòng dõi Vua Hùng. Bắc Văn
Lang chính là nước Xích Quỷ chín đời Kinh Dương Vương nối tiếp nhau trị quốc
một đất nước giàu có không những giàu có về vàng bạc ngọc ngà châu báu, mà giàu
có về lương thực nhất là văn minh lúa nước. Cũng vì sự giàu có nầy mà luôn gặp
phải mối họa về xâm lược của các thế lực ngoại xâm. Cũng như những tay lòng đầy
dã tâm tham lam nổi lên chiếm lấy Bắc Văn lang
nước Xích Quỷ làm của riêng cho mình như Cha Con Doãn Thường biến Bắc
Văn Lang thành một thuộc địa Việt Trung
Nguyên, sau nầy Việt Trung Nguyên chuyển đổi thành Trung Quốc.
Vì
Sao Bắc Văn Lang trở thành Việt Trung Nguyên ?
Là
vì cha con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng Vương ở giữa. Nam có
Hùng Vương. Bắc có Chu Vương. Giữa có Việt Vương. Kể từ khi Cha Con Doãn Thường
nổi lên chiếm toàn bộ Bắc Văn Lang, thời danh từ thuộc địa Việt Trung Nguyên
mới ra đời. Từ đó Bắc Văn Lang dần dần biến mất thay thế danh từ Trung Nguyên.
Bắc Văn Lang không còn nữa. Chỉ nghe đến danh từ Trung Nguyên mà thôi.
Bắc
Văn Lang vốn là nước Xích Quỷ giàu có trù phú vô cùng dân số lại đông lên nhanh
chóng không có nơi nào sánh kiệp. Là do dân
Phương Bắc di cư đến ở vào các thời kỳ Nhà Hạ, Nhà Thương, Nhà Ân, Nhà
Chu. Phương Bắc không ổn định như Phương Nam Văn Lang chiến tranh loạn lạc
truyền miên. Dân chúng lánh nạn chiến tranh di cư đến Bắc Văn Lang sanh sống
đông vô số đây chính là cơ hội thuận lợi cho Cha Con Doãn Thường có nguồn gốc
Phương Bắc nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang.
Hùng
Việt Vương, Tuân Lang, rất khó tiêu diệt được vì Cha Con Doãn Thường quá khôn
khéo biết dùng hình ảnh Quốc Tổ Hùng Vương làm bức bình phong che chắn cho sự
dã tâm nổi lên chiếm lấy Bắc Lang xưng Việt Vương. Cha Con Doãn Thường trở
thành dân tộc Văn Lang Bách Việt, trải qua nhiều đời. Nên Hùng Việt Vương, Tuân
Lang không thể liệt Cha Con Doãn Thường là giặc ngoại xâm được. Mà chỉ coi Cha
Con Doãn Thường là quân phản loạn.
Trong
khi phần lớn dân Bắc Văn Lang đồng tình ủng hộ cuộc nổi dậy cha Con Doãn
Thường. Vì cho Cha Con Doãn Thường là dòng giỏi các Vua Hùng tái sanh chấn hưng
lại nước Văn Lang xóa bỏ độc tài độc trị cũng như tham quan ô loại đem lại sự
công bằng bình đẳng cho muôn dân, như thời Quốc Tổ dựng nước. Nên Hùng Việt
Vương, Tuân Lang khó mà đánh bại được.
Chỉ
còn một cách là Nam Bắc phân tranh mà thôi cũng từ đây dân tộc Bách Việt Văn
Lang nội chiến đầu rơi máu đổ nồi da nấu thịt Nam - Bắc phân tranh vô cùng khốc
liệt. Loài ác quỉ chưa vì thế mà dừng tay tiếp tục hảm hại dân tộc Văn Lang con
cháu Tiên Rồng hơn hai nghìn năm.
Ở
vào thời điểm nầy Phương Nam Hùng Vương. Phương Bắc Nhà Chu. Không khác gì
nhau. Duy trì chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo. Có nghĩa Vua nghe theo Triều
Thần. Làm Theo Triều Thần. Cũng cố sự Độc Tài Độc Trị. Cha Con Doãn Thường khôn
ngoan hiểu rõ sự thống khổ của dân dưới thể chế Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị của
chủ nghĩa Phong Kiến Thấn Giáo đã trải qua hàng nghìn nghìn năm.
Cha
Con Doãn Thường nghiêng cứu rất kỷ về thời đại Hùng Vương dựa trên cơ sở nào mà
kéo dài sự độc lập lâu như vậy. Và đã phát hiện sự kéo dài sự Độc Lập đó. Không
phải dựa trên cơ sở Phong Kiến Thần giáo nghe theo triều Thần, lấy cơ sở Triều
Thần trị quốc. Mà là có một nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP rõ ràng. Vua,
Quan, Dân đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đó. Tức là nền Quốc Đạo
Dân Tộc ai cũng như ai Bình Đẳng, Xã Hội Công Bằng Dân Chủ Văn Minh. Một nhà
nước lấy Dân làm Gốc, Dân Chủ: Dân có quyền, khác với thể chế Phong Kiến Độc
Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Thể chế của sự xin cho. Mà là Nhà nước của Dân do Dân
và vì Dân. Như thời Quốc Tổ Vua Hùng dựng lên Nhà Nước Văn Lang.
Nhưng
Cha Con Doãn Thường lại không hiểu một điều Quốc Tổ Vua Hùng khai dựng lên Nước
Văn Lang rộng lớn hùng mạnh. Không phải dựa trên chiến tranh gươm đao giáo mác.
Tàn sát lẫn nhau mạnh được yếu thua. Thắng là Vua, thua là Giặc xem đi xét lại
giặc với Vua cũng chỉ là một thứ. Mà là dựng nước Văn Lang rộng lớn hùng mạnh
dựa trên Quền Con Người Công Bằng Bình Đẳng Văn Hóa Cội Nguồn trở thành nền
Quốc Đạo dân tộc thịnh trị 2701 năm. Văn Hóa
Mặt Trời Chánh Đẳng Chánh Giác.
Văn Hóa Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng. Văn Hóa Công Bằng, Bình Đẳng,
Tự Do Dân quyền văn minh. Vua TỐI CAO của Nước Văn Lang không phải là người
khai lên Nước Văn Lang, mà chính là nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. Nền
quốc Đạo Dân Tộc VUA, QUAN, DÂN đều tôn thờ. Đây là điều bí mật kéo dài Độc Lập
của Nước Văn Lang. Cha Con Doãn Thường không thể nào với tới nổi. Những bí mật
cao siêu như vậy. Cứ Nghĩ Vua là trên hết, mà không hiểu có một thứ trên cả
Vua. Đó là Thiên Luật Vũ Trụ. Cũng Chính là Thiên Ý Cha Trời, cũng chính là
Lương Tâm con người, hiện thân HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP mà Quốc Tổ Vua
Hùng dùng nó để khai dựng lập lên Nước Văn Lang.
Quốc
Tổ Vua Hùng khai dựng lên nước Văn Lang không phải bằng vũ lực thắng là Vua
thua cho là giặc. Mà bằng con đường Văn Hóa Cội nguồn cũng chính là nền Hiến
Pháp nền Quốc Đạo dân tộc. Văn Hóa Chánh Đẳng Chánh Giác tối cao Vũ Trụ. Văn
Hóa mặt trời trí tuệ soi sáng cho Bách Việt Văn Lang. Mất văn Hóa Cội Nguồn
thời dân tộc Văn Lang cũng theo đó mà tan rã. Bóng u minh trùm xuống chiến
tranh loạn lạc triền miên. Yêu Tinh Quỉ dữ đầu thai làm người chuyển xây tình
thế tàn hại con người nói chung dân tộc văn Lang con cháu Tiên Rồng lạc vào con
đường ác đạo hầu hết sa đọa xuống các tần Địa Phủ. Và cho đến khi nào dân tộc
Việt Nam sắp đi vào đại họa diệt vong mất nước thời anh linh Quốc Tổ Vua Hùng
sẽ xuất hiện cứu nguy dân tộc Việt Nam tiêu diệt ba con chúa quỉ không cho chúng
ngự trị hình chữ S Địa Long Vũ Trụ tức là nước Việt Nam ngày nay.
**************
PHẦN 2
Ông
Bà Cha Con Doãn Thường khởi nguồn từ dòng dõi Vua Vũ. Con thứ hai của Vua Thiếu
Khang đời Nhà Hạ. Phương Bắc. Đến đời Vua Kiệt Nhà Hạ. Vua Kiệt đắm say tửu
sắc, lại bất trí, không biết dùng người tài. Nghe lời dua mị của nịnh thần.
Chinh phạt các nước. Vua Vũ bị Vua Kiệt Nhà Hạ tri sát. Vua Vũ dẫn gia quyến vợ
con, người thân cũng như các quan tướng có trên cả trăm người trốn vào Phương
Nam giả làm dân thường đến Bắc Văn Lang Sanh Sống rải rác nhiều nhất là ở đất
Cối Kê.
Vua
Vũ đến ở Bắc Văn Lang đất Cối Kê, mang theo vàng bạc châu báu nhiều vô số kể.
Nên Vua Vũ mua rất nhiều ruộng đất trở nên giàu có không khác gì những người
giàu có nhất Bắc Văn Lang. Không những thế Vua Vũ còn giúp đở những các quan
tướng đi theo mình ở rãi rác khắp đất Bắc Văn Lang cũng trở nên giàu có. Nhờ sự
giàu có chỉ nội trong đời Vua Vũ đã nhập tịch dòng họ con cháu thành dân Bắc
Văn Lang chính thống. Theo số đông dân Lạc Việt - Âu Việt, Vua Vũ truyền bá
những người đi theo mình, cắt tóc, xăm mình, trở thành dân Âu, dân Việt. Nhưng
không sống theo phong tục tập quán của người Âu Việt, Lạc Việt. Mà di trì lối
sống dung hòa Bách Việt lối sống hòa hợp lôi kéo có sự mưu đồ của riêng mình.
Lối sống bí mật hình lên nghiệp Vương trong tương lai về sau trong các thời Con
Cháu.
Trong
thời điểm ấy ở Phương Bắc Thành Thang thời nhà Hạ là người nhân đức trung hậu.
Nên các nhân tài theo về rất đông. Còn Vua Kiệt thời hoang dâm vô độ, độc ác vô
cùng phải nói là mất hết nhân tính con người. Tàn Sát các nước, giết hại trung
thần. Bị Thành Thang đánh đổ lập lên Nhà Thương. Vu Vũ không muốn trở về đất
Bắc vì thấy Bắc Văn Lang đất Giao Chỉ trù phú giàu có vô cùng có thể làm nên
nghiệp bá bằng nuôi mộng cho đời sau.
Sao
gọi là nuôi mộng cho đời sau ?
Có
nghĩa là di trì dòng tộc theo Văn Hóa trung hòa hơi nghiêng về phương Bắc. Hàng
năm đều tổ chức hội đồng hương, luôn giúp đở người Phương Bắc đi cư đến Bắc Văn
Lang để ở. Có nghĩa là nuôi lớn cái gốc tự trị cũng cố thế lực Xã Hội, cho đến
khi hội tụ đủ thời cơ thời thời nổi dậy Xưng Vương.
Vua
Vũ cùng những quan tướng trung thần đi theo Vua Vũ đến nơi đất mới Bắc Văn Lang
người nào người nấy trở nên giàu có. Không kém gì người giàu có ở bản địa dân
chính gốc Bắc Văn Lang. Đến thời thứ 20
con cháu Vua Vũ có người đã làm đến Quan Trị Huyện. Đến đời thứ 30 thời con
cháu Vua Vũ phần lớn là Quan Tri Huyện, có người làm đến Quan Tri Phủ. Các Con Cháu
các Quan Tướng theo Vua Vũ phần nhiều là có địa vị Xã hội ở khắp đất Bắc Văn
Lang và chỉ còn hội đủ thời cơ thời nổi lên xưng Vương Xưng Bá.
Đến
thời thứ 31 thời con cháu của Vua Vũ là Doãn Thường, làm đến chức Tri Phủ Lạc
Giang Giao Châu. Sông Lạc.
Thấy
tình thế Bắc Văn Lang mất gốc Văn Hóa Cội Nguồn, Nền Quốc Đạo không còn. Nhà
nước Văn Lang trở thành nhà nước Phong Kiến Thần Giáo. Nhà nước của sự Độc
Quyền, Độc Tài, Độc Trị, Quan chức nhà nước Văn Lang phần lớn là quan lạc Cội
Lạc Nguồn chỉ biết cũng cố quyền lực không chăm lo mấy đến dân trở thành tham
quan nổi lên khắp nước. Nhất là Bắc Văn Lang, tham Quan không những đắm say tửu
sắc. Chỉ biết vàng bạc châu báu của cải vật chất. Không những thế trở thành mê
tín dị đoan chạy theo Văn Hóa Phương Bắc. Chỉ biết Quyền Lực, Tham ô hối lộ,
dẫn đến làm hại dân hại nước. Nhất là Thể Chế Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc
Trị càng ngày càng hà khắc của các vương quan tha hóa. Bách Việt Bắc Văn Lang
dân chúng chán ghét Vương Quan nhà nước Văn Lang vô cùng. Không trông mong gì
nhà nước Văn Lang chỉ biết nghe theo dua nịnh mơ ước có sự thay đổi, chỉ cần có
một tia lửa thương dân nổi lên, thời dân ủng hộ ngay, đây chính là cơ hội cho
Con Cháu Vua Vũ. Doãn Thường nổi lên xưng Vương.
Bắc
Văn Lang ở vào thời kỳ nầy như quả mít chín mùi của sự bùng nổ chiến tranh. Chỉ
cần một tia lửa đấu tranh nổi lên đêm lại quyền lợi cho dân tức thời bùng cháy
chiến tranh ngay, không cách gì dập tắc được. Nhất là Văn Hóa Cội Nguồn đã mất,
Non sông Tổ Quốc Văn Lang bao trùm màng u minh. Sự đoàn kết của dân tộc không còn. Một dân tộc mất đi nguồn gốc
truyền thống anh linh, đương nhiên dân tộc Văn Lang phải héo cành rũ ngọn. Cội
Nguồn dòng nước truyền thống không còn đương nhiên là lòng dân đã cạn, không
còn nghĩ gì đến non sông tổ quốc nữa. Mạnh ai nấy đi theo chí hướng riêng. Tất
cả phần đông đều rơi vào con đường ác đạo. Có thể nói là phản bội lại non sông
Tổ Quốc.
Anh
hùng lạc đạo không biết đâu là đúng sai nữa, cảnh nồi da nấu thịt diễn ra. Giết
hại nhau để rồi lên quan lên tướng. Lấy sự chém giết nhau cho đó là vinh quang
vinh dự Thiên Đàng mất lối Địa Ngục rộng mở. Thời kỳ như vậy gọi là thời kỳ mạc
pháp. Chiến Tranh loạn lạc truyền miên. Hận thù chồng chất oán trả oán, thù trả
thù chém giết lẫn nhau không biết bao giờ chấm dứt. Một dân tộc mất Cội mất
Nguồn khó mà tiến hóa để vương lên. Con Đường Đại Lộ Công Bằng
Bình Đẳng Dân Chủ Văn Minh không còn, thay vào đó là con đường Phong Kiến Thần
Giáo bảo thủ Độc Tài Độc Trị. Làm cho cuộc sống không tiến hóa được, dẫn đến
đói nghèo lạc hậu.
Người
dân như sống trong một nhà tù lớn. Khác vọng tự do. Cha con Doãn Thường hiểu rõ
điều nầy tạo lên bánh vẽ công bằng tự do, tất cả quyền lợi đêm về cho dân tuy
rằng chỉ là những lời lừa phỉnh không thật. Nhưng hiệu quả vô cùng dân chúng tin
theo nghe theo làm theo. Cha Con Doãn
Thường dựa vào phần lớn dân chúng ủng hộ đồng tình góp công gốp sức làm lên một
cuộc cách mạng long trời lở đất. Chiếm lấy Bắc Văn Lang phản bội lại thời đại cuối
các Vua Hùng.
Theo
như những gì Quốc Tổ dạy: Sự Sống của một dân tộc Văn Minh là sự sống có gốc
của dân tộc đó. Sự sống mất gốc dân tộc là sự sống chết, nguy cơ trùng trùng.
Nô lệ là chuyện không sao tránh khỏi dẫn đến mất luôn đất nước là chuyện không
sớm thì chiều.
Dân
tộc Văn Lang cũng bỡi gì mất đi Văn Hóa Cội Nguồn dẫn đến không biết bao nhiêu
là tai hại một đất nước Văn Lang rộng lớn nếu mất đi nền Quốc Đạo dân tộc thời
khó mà đoàn kết được Bách Việt. Dẫn đến mất đi Bắc Văn Lang. Rồi đến Trung Văn
Lang. Chỉ còn lại Nam Văn Lang. Nếu còn tiếp tục không khôi phục lại Văn Hóa
cội Nguồn. Truyền thống dựng nước Ông Cha có hơn năm nghìn năm văn hiến thời
Nam Văn Lang hình chữ S nước Việt Nam cũng không thể nào giữ nổi bị giặc phương
Bắc nuốt trọn.
Cha
con Doãn Thường mọc ra nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang cải đổi thành Việt Trung
Nguyên. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn dưng hai tay cho người Phương Bắc. Ở vào
thời Chu Nguyên Vương nhà Chu. Chu Nguyên Vương phong cho Câu Tiễn làm bá chủ ở
Phương Đông. Câu Tiễn cuối đầu vân mệnh.
Gương còn đó sờ sờ trước mắt
Quên Cội Nguồn khó thoát tai ương
Hỡi Việt Nam con cháu Rồng Tiên
Gương lịch sử đừng quên luôn nhớ
Về Cội Nguồn dựng xây truyền thống
Đâm lộc cành kết quả sai hoa
Theo con đường Truyền Thống Ông Cha
Khôi phục lại hào hùng dân tộc
Khôi phục lại văn minh Độc Lập
Nền Quốc Đạo như vầng Nhật Nguyệt
Mãi sáng soi con cháu Việt Nam.
Văn
hóa Phong Kiến Thần Giáo Độc quyền, Độc Tài, Độc Trị không phải bây giờ mới có.
Mà đã ra đời hơn 10 nghìn năm trước công nguyên tồn tại mãi ở Phương Bắc. Văn
hóa của sự bành trướng tranh hùng tranh bá, chém giết lẫn nhau. Thôn tính lẫn
nhau. Vô cùng tàn khốc. Nếu ai thông suốt về sử ở Phương Bắc thời đều cảm nhận
được điều nầy, sự bành trướng tranh hùng tranh bá thôn tính lẫn nhau. Ăn nuốt
lẫn nhau chém giết lẫn nhau thủ đoạn tàn độc, thứ Văn Hóa nầy lan tràn đến
đâu thời chiến tranh tàn khốc đến đó. Sự
đêm lại kết quả cho Văn Hóa nầy là hận thù. Thủ đoạn, tàn độc. Nếu bị nhiễm
nặng có thể nói không còn lương tri mất đi nhân tính con người.
Không
như Văn Hóa Cội Nguồn văn Hóa Chính Nghĩa làm cho nhân loại con người Hiễn
Thánh, Thánh Thiện. Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa trí tuệ. Văn Hóa của sự đoàn kết, hòa bình, thịnh vượng. Có thể nói
Văn Hóa Cội Nguồn Chính Nghĩa là Văn Hóa mùa xuân trăm hoa đua nở. Văn Hóa mở ra
cánh cửa Thiên Đàng cực lạc.
Văn
Hóa Phong kiến Thần Giáo Độc Tài Độc trị tồn tại mạnh ở Phương Bắc gieo rét
tranh hùng tranh bá thứ Văn Hóa Mùa Đông tàn phá văn minh tinh thần làm cho con
người càng trở nên ác độc. Độc tâm độc tánh hiểm ác vô cùng. Nói đến Văn Hóa
Phong kiến Thần Giáo là nói đến cái độc nói chung là không gì không độc. Hiểm
độc, ác độc, tàn độc, tuy có nhiều Thánh nhân ra đời.
Như
Khổng Tử làm giảm bớt đi cái độc của Phong Kiến Thần Giáo, Độc Quyền, Độc Tài,
Độc Trị. Đưa con người đến Thánh Thiện nhưng xem ra như hạt Muối bỏ xuống ao
hồ. Không mấy kết quả. Mà còn trở thành một thứ vũ khí để cho các nhà Độc Tài độc
Trị Phương Bắc lợi dụng làm chính trị. Đầu độc làm hại các nước thuộc địa trong
đó có Việt Nam. Rơi vào cảnh nô lệ.
Quốc
Tổ Hùng Vương khai dựng lên nhà nước Văn Lang nhà nước của dân do dân và vì Dân
nhà nước tam quyền phân lập không có sự độc tài độc trị nhà nước của Hiến Pháp,
Luật Pháp, Đạo pháp. Nhà nước Pháp quyền. Nhà nước của sự công bằng bình đẳng.
Sự kéo dài độc lập thời đại Hùng vương 2701 năm Thượng Hùng Vương 23 đời. Hạ
Hùng Vương 18 đời tổng cọng thời đại Hùng Vương có 41 đời.
Văn
Hóa Cội Nguồn không những là Văn Hóa sáng soi Đạo đức con người, Đạo đức xã
hội. Mà còn là kim chỉ nam cho sự phát triển xã hội văn hóa Cội Nguồn hiển linh
trở lại sáng soi dân tộc Việt Nam, có thể nói dân tộc Việt đã đến thời kỳ
chuyển sang giai đoạn thời đại Thánh
Đức.
Văn Lang chính sử sách còn ghi
Bách việt anh linh có lạ gì
Đài linh vó ngựa Nam - Trung - Bắc
Cội Nguồn Văn hóa một đề thi
Văn Lang Bách việt
Tàn sát lẫn nhau
Nguyên cớ vì đâu?
Cội Nguồn biến mất
Đi vào nội chiến
Trăm khổ nghìn sầu
Những ai quên mất Cội Nguồn
Lạc vào ác đạo hết đường hồi quy
Thiên đàng đã mất lối đi
Muôn đời sa đọa âm ty nghìn trùng.
***************
PHẦN 3
Ở
vào thời Phong Kiến Thần Giáo thời Nhà Chu. Chu Vũ Vương. Chu Thành Vương. Chu Mục
Vương. Chu Di Vương. Đến thời Chu Lệ Vương thời nội triều Phong Kiến Thần
Giáo con cháu Nhà Chu tranh giành quyền
lực. Anh Em chém giết lẫn nhau, triều chính hổn loạn.
Chu
Lệ Vương chạy trốn sang đất Trệ. Các Quần Thần Phong Kiến Thần Giáo Nhà Chu trong
cảnh triều ca không Vương. Bằng hợp nhau thi hành chính sự Cọng Hòa điều hành
đất nước Phương Bắc Nhà Chu đi đến hổn loạn. Các Trấn Chư Hầu nổi lên tranh bá
lẫn nhau. Thôn tính lẫn nhau chiến tranh loạn lạc. Phong Kiến Thần Giáo Quần
Thần Nhà Chu, lập Chu Tuyên Vương chỉnh đốn lại Nhà Chu.
Khi
ấy ở nước Tề. Tề Lệ Công được lập. Lệ Công vô cùng bạo ngược. Nghe lời xàm tấu
nịnh hót tham quan ô loại. Nội chính thời giết Trung Thần. Ngoại chính thời
chinh phạt các nước làm cho Phương Bắc chiến tranh thôn tính lẫn nhau ăn nuốt
lẫn nhau dữ dội. Mạnh được yếu thua thắng là Vua. Thua là giặc. Xem đi xét lại
giặc với Vua cũng chẳng khác gì nhau. Ai có nhiều nhân tài biết đội lớp nhân
nghĩa. Mưu mô xảo quyệt hơn thời thắng. Xưng Vua, Xưng Chúa. Xưng Bá.
Không
như phương Nam nước Văn Lang dân chúng sống theo Thánh Đức Thánh Giáo. Sống
Theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo dân tộc thái bình an lạc. Kéo
dài hơn mấy nghìn năm.
Đều
đáng chú ý ở đây : Thánh Đức, Thánh Giáo khác với Phong Kiến Thần Giáo Là ở chỗ
Thánh Đức Thánh Giáo. Vua, Quan, Dân, đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo
Pháp Nền Quốc Đạo dân tộc. Còn Phong Kiến Thần Giáo là Triều Thần bao hàm cả
Trung Thần, Nịnh Thần tâu lên Vua. Vua nghe theo đó mà hành sự. Mới có cảnh
Nịnh Thần hảm hại Trung Thần. Trung Thần can gián Vua Làm Bậy liền bị xữ tử.
Còn Thánh Đức Thánh Giáo không phải như thế. Tất cả Vua, Quan, Dân đều sống
theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Bằng Bình Đẳng Văn Minh. Chỉ bỏ tù
hoặc xử tử những người có tội vi phạm luật pháp. Dù cho đó là Vương, Quan.
Những người vi phạm Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp thời bị xử theo Hiến Pháp,
Luật Pháp, Đạo Pháp Công đạo của nhà nước Vương, Quan, Dân phạm tội đều bị xét
xử Công bằng Bình Đẳng trước Pháp Luật như nhau.
Phương
Bắc Nhà Chu theo chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo độc tài độc trị, khác Phương
Nam Thánh Đức Thánh Giáo thời Hùng Vương đa nguyên đa sắc tộc Bách Việt Tộc Văn
Lang công bằng bình đẳng dân chủ tự do. Vì thế Phương Bắc không thể nào sánh
kịp chiến tranh loạn lạc. Các nước thôn tính lẫn nhau tranh giành dân chúng. Tranh Giành đất đai
quyền lực, làm cho dân chúng khốn đốn, thảm cảnh đói rét chết chóc xảy ra khắp
nơi không ít dân chúng trốn chạy di cư vào Nam tức là Bắc Văn Lang. Có lúc chỉ
trong vòng có mấy ngày lên đến cả vạn
người. Bắc Văn Lang vì thế dân số tăng lên nhanh chóng không sao đếm
xuể. Thậm Chí các Châu Quận, Huyện, không còn kiểm soát được nữa. Đành để cho
dân chúng Phương Bắc tràn qua di cư sống vô gia cư khắp trên Bắc Văn Lang.
Nước
Tề đến thời Tề Hoàng Công Phong Kiến Thần Giáo vô cùng hưng thịnh. Phương Bắc
tranh bá khóc liệt hơn nữa. Tề Hoàng Công nhờ có các bậc Triều Thần tài
giỏi không những thu phục các nước mà
còn biết trọng dụng nhân tài. Mộng bành trướng xưng hùng xưng bá lúc nào cũng
trổi dậy mạnh mẻ Tề Hoàng Công nhờ có Thấp Bằng, Cao Hề, Bão Thúc Nha cùng
Quảng Trọng bày kế hay, mưu lược giỏi đánh nước Kỷ, nước Lỗ, nước Đàm. Cứu nước
Yên, đánh nước Vệ, nước Thái, Nước Sở, Nước Trần. Nước Tấn.
Tề
Hoàng Công phía Nam chinh phạt Nam đến đất Thiệu Lăng, tây Nam đến Hùng Sơn. Ở
phía Bắc đánh Sơn Nhung, Ly Chi, Cô Trúc. Phía Tây đánh Đại Hạ đến núi Thái
Hàng, núi Ty Nhĩ hơn cả trăm nước không ai dám chống lại Tề Hoàng Công.
Cuộc
chiến chinh phạt nước nầy, thu phục nước kia. Xóa sổ nước nọ, cứu nước nầy,
giúp nước kia. Có thể nói lúc bấy giờ Phương Bắc là bãi chiến trường. Dân chúng
Phương Bắc càng bị chiến tranh bao nhiêu, thời càng di cư vào Nam Bắc Văn Lang
càng nhiều bấy nhiêu. Không những dân chúng mà còn có cả những Vua, những Tướng
đang bị tri sát.
Cùng
thời ấy đến thời Triệu Xuyên nước Tấn giết Vua của mình là Di Cao. Tấn Linh
Công, Triệu Thuẫn cũng có phần. Triệu Thuẫn có công lập Tấn Thành Công lên thay
thế. Nên Tấn Thành Công bỏ qua còn phong cho con cháu Họ Triệu làm quan lớn.
Đến thời Tấn Cảnh Công, Đồ Ngạn Giả lật ngược tình thế kể tội Triệu Xuyên.
Triệu Thuẫn mưu sát Di Cao, Tấn Linh Công ở tại Đào Viên. Dòng Họ Triệu bị tru
di cửu tộc. Quan Binh truy sát con cháu Triệu Xuyên, Triệu Thuẫn chết không
biết bao nhiêu mà kể. Số còn sống thời trốn
chạy khắp nơi có người trốn sang nước Tống. Một số trốn vào Nam. Tức là Bắc Văn
Lang sanh sống.
Trải
Qua nhiều đời được sự giúp đở con cháu của Vua Vũ. Dòng họ Triệu trở nên hưng
thịnh giàu sang trở thành quyền thế trong đó có Triệu Tế Gia. Khi Cha Con Doãn
Thường Con Cháu Vua Vũ ra đời như một anh hùng nổi dậy đứng lên chiếm lấy Bắc
Văn Lang, cải đổi thành nước Việt Trung Nguyên thời con cháu Họ Triệu làm đến
Tướng Soái thống lãnh đại quân Trung Nguyên chống trả lại quân Văn Lang.
Thời
hậu Hùng Vương, từ thời thứ 13 hậu Hùng Vương trở xuống đất nước Văn Lang trở
thành nội chiến chia cắt Bắc Nam. Bắc
Văn Lang đã bị Cha Con Doãn Thường nổi dậy chiếm lấy lập lên đất nước Việt
Trung Nguyên.
Với
tình thế lúc bấy giờ nước Văn Lang Văn Hóa Cội Nguồn mai một thất truyền biến
mất. Nền quốc đạo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính không còn. Thay vào
đó là niền Phong Kiến Thần Giáo do triều Thần đề xướng giúp Vua. Theo thể chế
Độc quyền độc tài độc trị không còn Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nữa Mà nghe theo
Triều Thần. Vua anh minh sáng suốt thời còn khá còn Vua hôn quân vô đạo lại
nghe Nịnh Thần. Thời tai hại nước nhà không sao xiết kể.
Có
thể nói ở vào giai đoạn từ thời Hùng Việt Vương trở xuống không khác gì nền Văn
Hóa Phong Kiến Thần Giáo Phương Bắc Độc Tài, Độc Trị. Dưới thể chế Độc Tài, Độc
Trị Phong Kiến Thần Giáo xin cho nầy. Càng làm cho đất nước Văn Lang suy tàn.
Tham quan mọc ra như nấm. Chỉ biết vơ vét của dân làm giàu, mua quan bán chức
không kẻ gì đến non sông Tổ Quốc. Lòng dân càng ngày càng oán hận.
Văn
Hóa Phong Kiến Thần Giáo là Văn Hóa độc hại, Văn Hóa của sự tranh bá tranh hùng
mạnh được yếu thua, thắng là vua thua là giặc Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo làm
cho đất nước Văn Lang suy yếu dẫn đến chiến tranh loạn lạc không khác gì Phương
Bắc. Sự độc hại của Phong Kiến Thần Giáo là mê tín dị đoan, cầu cạnh Thần Linh.
Xin Xăm bói quẻ. Lôi kéo lòng người đi theo con đường Tà Giáo. Thổi bùng lòng
tham tranh danh đoạt lợi bất chấp mọi thủ đoạn thôn tính tiêu diệt lẫn nhau.
Phong
Kiến Thần Giáo khác với Phong Kiến Thánh Giáo là xa con đường Chính nghĩa Công
Bằng Bình Đẳng. Không có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công đạo Chánh Nghĩa
chân chính xã hội. Mà chỉ theo thể chế độc tài độc trị. Nước Văn Lang không còn
nền Quốc Đạo dân tộc. Có nghĩa là Văn Hóa Cội Nguồn biến mất Tự Do Dân Quyền
Văn Minh thời dựng nước không còn.
Thay
vào đó là nhà nước Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị. (Chủ nghĩa Phong Kiến
Thần Giáo là chủ nghĩa cạnh tranh hủy diệt khốc liệt. Mạnh được Yếu thua. Thắng
là Vua thua là Giặc. Xem đi xét lại Giặc với Vua cũng chỉ là một thứ). Theo quy
luật tự nhiên của Tạo Hóa. Nơi nào có áp bức thời nơi đó có đấu tranh. Nơi nào
chạy theo Thần Quyền thời nơi đó lòng dân hổn loạn Cha Con Doãn Thường đã hiểu
rỏ tình thế xã hội thời bấy giờ cơ hội thuận lợi nổi dậy chiếm lấy lòng dân.
Chiếm lấy Bắc Văn Lang. Đất Nước Văn Lang liền rơi vào cảnh chiến tranh nội
chiến tàn khốc.
Đồng
Bào Bách Việt Văn Lang con cháu Tiên Rồng rơi vào cảnh nồi da nấu thịt tàn sát
lẫn nhau. Văn Hóa Cội Nguồn nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chính nghĩa Quốc
Tổ Hùng Vương dùng nó dựng nước, giử nước, trị quốc kéo dài độc lập 2701
năm là vần Thái Dương của non sông Tổ
Quốc. Soi sáng cho dân tộc Văn Lang Thái Bình thịnh vượng An Lạc yên vui. Đánh
mất Văn Hóa Cội Nguồn nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp dân tộc là đánh mất
tất cả. Dân Tộc Văn Lang rơi vào cảnh tối tăm.
Non
Sông Tổ Quốc mất gốc. Bách Việt Văn Lang lạc Cội lạc Nguồn Dân tộc Văn Lang
liền tan rã sự đoàn kết chia bè rẽ phái nổi dậy xưng bá xưng hùng chém giết lẫn
nhau. Không khác gì Phương Bắc chiến tranh hổn loạn dân chúng không lúc nào
yên. Một dân tộc mà nguồn gốc dựng nước, giữ nước mù mờ. Không rõ ràng, sự thừa
kế không có thời rơi vào con đường ác Đạo hổn loạn tối tăm ngay.
Bằng
chứng cụ thể nền Văn Hiến Văn Hóa dựng nước không còn. Nước Văn Lang liền đi
vào suy yếu. Dân Chúng Bắc Văn Lang nổi loạn. Cha Con Doãn Thường nổi dậy chiếm
lấy bắc Văn Lang. Đất nước Văn Lang liền bị chia cắt. Bách Việt Văn Lang rơi
vào nội chiến. Kết quả của sự nội chiến là đưa dân tộc Văn Lang đến con đường
nô lệ ngoại ban. Mất lần đất đai chiến tranh truyền miên khốn khổ mấy nghìn năm.
Cây mất gốc héo cành rũ ngọn
Nước mất nguồn nước cạn nước khô
Sử kinh chép
lại sáng soi
Mất Nguồn lạc Cội
nát tan cơ đồ
Chiến tranh lạc hậu khốn cùng
Lệ nô, nô lệ hết còn tự do.
**************
PHẦN 4
Ở
vào thời gần cuối thời Hùng Việt Vương : Tuân Lang. Đời thứ 13 Hạ Hùng Vương
569 đến 506 trước công nguyên uy lực Vua Hùng suy yếu là do Văn Hóa Cội
Nguồn đã biến mất Hiến Pháp, Luật Pháp,
Đạo Pháp chân chính không còn cũng ra đi.
Nền
Văn Minh Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng. Quyền con người lấy dân làm gốc không còn.
Dần dần thay vào đó là nền Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc trị. Theo thể chế
xin cho. Bóng đêm bao phủ trùm xuống nước Văn Lang tham quan mọc ra như nấm.
Mua quan, bán chức xảy ra thường xuyên.
Nhất
là Bắc Văn Lang sự mua quan bán tước lại càng lộ liểu mua quan bán tước công
khai. Lại thêm tình hình lúc bấy giờ bất ổn vì nạn di cư dân chúng Phương Bắc lánh
nạn chạy giặc vào Bắc Văn Lang mỗi ngày mỗi đông. Đến nổi không còn kiểm soát
được nữa.
Khi
ấy ở Đất Cối Kê, Lạc Giang Châu, nơi con sông Lạc, sông Kinh. Có một gia đình rất
đông con cháu, giàu có nhất Lạc Giang Châu có tới trăm thương đoàn buôn bán giao
dịch hầu khắp Trung - Bắc Văn Lang. Vị giàu có đó tên là Việt Tế Gia.
Ông
là người tôn thờ Văn Hóa Phương Bắc Phong Kiến Thần Giáo. Tôn thờ thuật Xin
Xăm, Bói Quẻ, Nhập Đồng, Nhập Bóng. Mê Tín dị đoan tôn thờ các loài Thần Thú.
Việt tế Gia là dòng giõi Vua Vũ từ Phương Bắc thời Nhà Hạ di cư đến Đất Cối Kê
để ở.
Việt
Tế Gia duy trì được gia phả dòng họ trên ba mươi đời. Nên hàng năm đến ngày giỗ
tổ Vua Vũ. Không những các chi nhánh dòng họ, mà còn nhiều dòng họ khác liên
quan đến Ông Tổ Vua Vũ cũng đã đông đến lên hàng nghìn nghìn người. Ngoài Dòng
Họ Vũ ra còn có Dòng Họ Triệu con cháu Triệu Tế Bá Gia đông vô cùng. Không ít
con cháu các chi nhánh Dòng Họ Triệu làm đến Bố Chánh Đại Nhân Quan Huyện. Rải
rác khắp Bắc Văn Lang.
Thế
lực Việt Tế Gia Họ Vũ ở vào thời điểm nầy phải nói là không ai dám đụng đến. Vì
đại đa số con cái cháu chắt đang nắm chính quyền Từ Châu Bộ, đến Huyện, Xã. Không
những thế mà còn Ông Trùm kinh tế Thương Gia khắp Bắc - Trung Văn Lang. Nên mọi
sự biến động xảy ra trên nước Văn Lang đều hiểu rõ như trong lòng bàn tay. Nhất
là Bắc Văn Lang.
Việt
Tế Gia có rất nhiều bà Vợ. Nhưng Hồ Mị Nương là khôn lanh hơn cả trẻ đẹp hơn
mấy bà vợ kia. Nên Việt Tế Gia nâng niu chiều chuộng hết mực. Hồ Mị Nương không
thích ăn thịt mà thích ăn các loài cá lạ.
Một
hôm Hồ Mị Nương nghe nói dân chài bắt được con Thuồng Luồng Đất. Xẻ thịt đêm ra
chợ bán. Nghe nói ăn thịt được Thuồng Luồng Đất hên lắm lại trị được bá bệnh
nhất là bệnh khó có con. Liền cho người mua về thật nhiều phơ khô để dành mà
ăn.
Một
hôm Hồ Mị Nương nằm mộng thấy một con quái thú Thuồng Luồng bốn chân đầu Sói
mình Sấu đuôi Rồng đến chụp Mị Nương. Mị Nương sợ quá ré lên trong lúc canh
đêm, làm kinh động cả nhà. Việt Tế Gia hỏi Mị Nương kể lại giất chiêm bao ấy.
Việt Tế Gia lấy làm kinh sợ vì Hồ Mị Nương thấy con quái thú trong giất
chiêm bao chính là Con Quái Thú Thuồng Luồng Phòng Phong mà dòng họ Vũ đã thờ
trong cổ miếu có hơn 30 đời.
Không
bao lâu Hồ Mị Nương mang thai rồi sanh ra một cậu con trai kháu kỉnh. Trong lúc
sanh ra cậu bé trời đất nổi cơn thịnh nộ bất thường mưa gió nỗi lên ầm ầm cây
cối ngã đổ chết chóc không biết bao nhiêu người. Với điềm lạ ấy nên Việt Tế Gia
đặc tên cho con là Doãn Thường.
Doãn
Thường lớn lên không thích xu thế giàu, mà thích làm Chính Trị. Điều nầy làm
Việt Tế Gia đặc nhiều huy vọng vào Doãn Thường. Doãn Thường rất thông minh học
một biết mười học đâu nhớ đó, ăn nói khôn khéo, có tài hùng biện nên rất được
nhiều người nghe. Lại thêm có sức mạnh không ai bằng. Doãn Thường không đi theo
còn đường làm giàu của Việt Tế Gia. Mà chỉ đi theo con đường Chính Trị. Thu
thập võ nghiệp giao du học hỏi khắp nơi nhờ nhân duyên lớn Doãn Thường gặp được
một đại Ma Đầu học được Ma Đao tuyệt học Đao Pháp.
Doãn
Thường trở thành sát Thủ đệ nhất sát Đao không ai sánh được. Tuy Doãn Thường
không đi theo con đường làm giàu của Việt Tế Gia. Nhưng tất cả mưu lược thủ
đoạn trong kinh doanh thời Doãn Thường hơn hẳn Việt Tế Gia rất xa. Nên Việt Tế
Gia rất hài lòng về việc nầy.
Doãn
Thường thường nói với Việt Tế Gia:
Không có kinh danh nào hơn là kinh doanh
buôn quan bán tước. Không có cái lợi nào hơn là cái lợi gồm thâu thiên hạ làm
thống lĩnh.
Việt
Tế Gia nghe Doãn Thường nói thế thời sửng sốt nói:
Con muốn làm vua.
Doãn
Thường nói:
Làm Vua, làm Chúa, làm Bá thời có gì hay.
Chỉ có xưng Vương mới là thượng sách.
Việt
Tế Gia nghe Doãn Thường nói thế thời tái cả mặt không phải vì sợ. Mà vì nghe
Doãn Thường có tư tưởng lớn quá. Ở vào thời điểm hiện tại chỉ có hai chúa
Vương. Đó là Nam có Chúa Tể Hùng Vương. Bắc có Chúa Tể Chu Vương muốn trở thành
một vị Chúa tể Chúa Vương nữa thời còn khó hơn lên trời.
Có
một hôm Việt Tế Gia nói:
Doãn Thường theo con tình hình hiện tại con
nghĩ Phương Nam có Chúa Tể Hùng Vương mạnh, hay Phương Bắc Chúa Tể Chu Vương
mạnh.
Doãn
Thường nghe cha hỏi liền trả lời:
Thế Lực Hùng Vương kéo dài hơn mấy nghìn
năm, nay đã đến thời kỳ suy yếu. Nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đã thất
truyền. Tham quan mọc lên như nấm làm cho dân than oán khắp nơi. Tự đánh mất
lòng dân đồng nghĩa là báo hiệu đi vào sụp đổ. Hơn nữa văn hóa Cội Nguồn không còn
Đạo Đức suy đồi dẫn đến mê tín dị đoan không khác gì Phương Bắc. Khó mà đoàn
kết được sức mạnh toàn dân tộc. Còn Phương Bắc Nhà Chu thời còn tệ hại hơn nữa.
Chúa Vương nhà chu nền Phong Kiến Thần Giáo đã đến hồi cực thịnh. Vua Quan tửu
sắc dâm loạn ăn chơi trác tán, chỉ biết quyền lực. Độc Tài Độc Trị tham lam tàn
bạo nghe theo dua nịnh nay ngã theo nước nầy, mai ngã theo nước kia. Tề mạnh
thời ngã theo Tề. Tấn mạnh thời ngã theo Tấn. Sở Mạnh thời ngã theo Sở. Làm cho
Phương Bắc các nước xâu xé lẫn nhau. Chiến tranh triền miên dân chúng khốn khổ
vô cùng. Tạo ra dòng người di cư vào Nam như nước lũ. Đây chính là cơ hội cho
dòng dõi Vua Vũ Ta đầy đủ yếu tố phản loạn lại nhà nước Văn Lang tạo lên nghiệp
Vương. Tình thế Bắc Văn Lang bây giờ vô cùng hổn độn không thể kiểm soát tình
hình được nữa. Cướp bóc nổi lên khắp nơi Vương, Quan thời chỉ biết bê tha trong
tửu sắc. Kẻ thì quá giàu người thời quá nghèo. Tuy chỉ là Bắc Văn Lang nhưng
dân số đông vô cùng. Hai Phần là dân bản gốc, một phần là dân di cư từ Phương
Bắc vào. Tuy hai phần dân bản gốc Văn Lang nhưng dân chúng phần đông cũng đã
chán chê triều đại Hùng Vương không đêm lại lợi ích gì cho dân. Làm Vua mà chỉ
nghe theo Nịnh Thần. Trung Thần luôn bị hảm hại, nhân tài vì thế mà không muốn
ra giúp nước. Nhất là Bắc Văn Lang chỉ thấy bọn tham qua sách nhiễu vơ vét của dân làm giàu cho bản
thân. Không kể gì đến truyền thống anh linh dân tộc. Đi ngược lại lời dạy của
Quốc Tổ Vua Hùng. Vì không còn Quốc Đạo nhà nước Văn lang. Sự mất gốc nầy dẫn
đến tôn thờ Phong Kiến Thần Giáo không khác gì Văn Hóa Phương Bắc. Đây chính là
cơ hội cho chúng ta làm nên nghiệp lớn. Chúng ta chỉ cần khôn khéo dựng Quốc Tổ
Hùng Vương dậy. Trước thời làm bình phong che chắn cho chúng ta. Sau là dân
chúng theo về, không nghi ngờ gì chúng ta cả chúng ta cứ nói là tôn thờ Quốc Tổ
Vua Hùng, thời toàn thể dân chúng Bắc Văn Lang sẽ đi theo chúng ta. Nhưng thật
ra chúng ta đi theo một hướng khác. Biến Bắc Văn Lang thành đất nước Trung
Nguyên. Xưng Vương ở giữa.
Việt
Tế Gia nghe Doãn Thường đưa ra đường hướng khôn khéo như vậy thời khen rằng:
Con quả là có mưu trí hơn người.
Nhưng
lại hỏi:
Làm thế nào mà thành nghiệp Vương nhanh
chóng được?
Doãn
Thường đáp:
Thưa Cha. Đối với những người có chí lớn.
Tất nhiên chẳng có gì là khó, chỉ là hiểu rõ Thiên Thời. Hiểu rõ Địa Lợi. Và biết cách lấy lòng dân, dung hòa
hết thảy các tần lớp Xã Hội. Lôi kéo các đại Môn Phái Võ Gia. Thu phục lợi dụng
Tà Ma Ác Đạo. Mua Quan, bán tước. Đưa con cháu tiến sâu vào ngôi vị Chính Quyền
nắm bắt mọi thông tin hằng ngày. Có tài tháo vát trăm mưu nghìn kế, chuyển xây
tình thế có lợi lần về Mình, bất lợi lần về Địch. Suy đoán hành động đúng lúc.
Biết làm cho người ta Mê Hoặc. Biết làm cho người ta Khiếp Sợ. Công Danh Lợi
Lộc là thiên đàng của sự ham muốn. Vì mấy ai không ham danh, ham lợi. Tự Do là
Thiên Đàng mơ ước của các tần lớp khốn khổ. Nhất là những giai cấp đang bị đàng
áp, bóc lột, sách nhiễu, những tù nhân tội lỗi những kẻ vô gia cư. Vì vậy chỉ
cần có danh từ tự do là những giai cấp thống khổ ấy liều chết mà đi theo rồi.
Dù đó chỉ là Bánh Vẽ. Dù biết rằng đó chỉ là bánh vẻ Tự Do nhưng cũng hiệu quả
không sao tưởng tượng được. Cọng thêm lời ru Công Bằng, Bình Đẳng. Thời dân
chúng khốn khổ như uống phải mật ngọt, ai là không mơ ước ai mà không đi theo. Nhưng thật ra chỉ
có nền Quốc Đạo Văn Hóa Cội Nguồn mới thật sự có nền Dân Chủ Tự Do, Công Bình
Bình đẳng mà thôi, nhưng đã bị thất truyền không còn dấu vết nữa. Nhưng chúng
ta chỉ cần chỉ cần có bánh vẽ lấy dân làm gốc cọng với khẩu hiệu Công Bằng Tự
Do thời chúng ta đã thành công cướp lấy Bắc Văn Lang xưng Vương rồi hầu hết các
tần lớp dân chúng ủng hộ đi theo chúng ta. Tuy biết đó chỉ là lời nói suông
ngôn từ nhưng cũng có hiệu quả như thường dấy lên một phong trào tự trị không
có một thế lực nào đánh bại nổi. Vì dễ cở nào không ai theo cũng chịu, nhưng
việc khó đến đâu mà có dân chúng theo về thời dời núi lấp sông cũng dễ như trở
bàn tay. Vì sao dựng dậy Quốc Tổ cũng như khẩu hiệu Công Bằng Bình Đẳng Tự Do
lại hiệu quả như thế? Vì muốn chiếm lấy Bắc Văn Lang không thể không lợi dụng
Quốc Tổ, vì chỉ có lợi dụng Quốc mới lôi kéo dân chúng đi theo mình phản lại
nhà nước Văn Lang. Với khẩu hiệu Công Bằng, Bình Đẳng chính là thiên đàng mơ
ước sự sống của tất cả tần lớp dân chúng. Nhất là dân chúng đang sống trong
khốn cảnh độc tài độc trị của chủ nghĩa phong kiến Thần Giáo. Thử hỏi mấy ai
trên thế gian nầy không ưa thích Tự Do Công Bằng Bình Đẳng. Nhưng Có vị Vương
nào, vị Chúa nào đêm lại Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng đâu. Chỉ trừ Quốc Tổ Vua
Hùng mà thôi. Mà chỉ thấy Độc Tài, Độc Trị muốn dân chết là chết, muốn dân sống
là sống. Mạnh được yếu thua được là Vua thua là Giặc. Xem đi xét lại Vua với
Gặc, Giặc với Vua nào có khác gì. Dân chúng mãi mãi không bao giờ có Tự Do.
Không bao giờ có Công Bằng Bình Đẳng thật sự. Chỉ khi nào Quốc Tổ Hùng Vương
sống dậy thời may ra mới có Tự Do Công Bằng Bình Đẳng thật sự. Nhưng điều đó sẽ
không bao giờ có vì chết rồi có ai sống lại được đâu. Chúng ta chỉ cần dựng dậy
Quốc Tổ Vua Hùng có bánh vẽ Tự Do. Bánh vẽ Công Bằng Bình Đẳng thời được Thiên
Hạ chiếm lấy Bắc Văn Lang dễ dàng. Nhưng giữ được Thiên Hạ thời khó vô cùng.
Quốc Tổ Vua Hùng về trời đã mang theo bí mật về Nhân Quyền Dân Chủ, Tự Do, Công
Bằng, Bình Đẳng. Nghe nói Vua Hùng chưa phải là tối cao của nước Văn Lang. Mà
tối cao của Nước Văn Lang chính là Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp nền Quốc Đạo
Dân Tộc. Nền Quốc Đạo Dân Tộc chính là Văn Hóa Cội Nguồn, chủ Nghĩa Đại Đồng.
Quốc Tổ Vua Hùng dùng Văn Hóa Cội Nguồn dựng nước Văn Lang. Không dùng đến bạo
lực mạnh được yếu thua, thắng là Vua thua cho là Giặc. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn
chủ nghĩa Đại Đồng Hiến Pháp, Luật Pháp,
Đạo Pháp Nhân Quyền đã thất truyền không
còn dấu vết gì nữa. Quốc Tổ Vua Hùng gồm thâu Bách Tộc dựng lên Bách Việt Văn
Lang theo phương pháp Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Có nghĩa Quốc Tổ Vua Hùng hàng
phục Thiên Hạ khai dựng lên nước Văn Lang không phải bằng con đường bạo lực.
Mạnh được yếu thua thắng là Vua thua là giặc. Mà bằng con đường Văn Hóa Cội
Nguồn đêm lại thật sự Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng cho Xã Hội. Nên mới kéo dài
Độc Lập lâu như thế. Nhưng phương pháp dựng nước ấy đã thất truyền rồi không
còn dấu viết gì nữa. Cha Con chúng ta tuy không có Văn Hóa Cội Nguồn nhưng nổi
dậy chiếm lấy bắc Văn Lang không khó. Chỉ cần tạo lên Hiến pháp, Luật Pháp, Đạo
Pháp giả hiệu. Công Bằng, Bình Đẳng, Dân Chủ, Tự Do giả hiệu, thời coi như
nghiệp Vương đã thành không ai có thể hiểu được sự cao thâm huyền diệu lừa dối
nầy. Mà cứ tưởng Cha Con Ta tôn thờ Quốc Tổ, đêm lại sự Tự Do, Công Bằng Bình
Đẳng cho người dân Bách Việt văn Lang. Bách Việt Văn Lang sẽ đi theo chúng ta
chống lại nhà nước Văn Lang. Sự lừa dối tinh vi nầy khó mà nhìn thấy. Nếu phát
hiện nhìn thấy thời coi như mọi chuyện đã rồi.
Với
mưu đồ bất chính Cha Con Doãn Thường lúc nào cũng nói làm theo di chí Quốc Tổ
Vua Hùng. Nhưng thật ra đó chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài che đậy dã tâm mưu mô
xão quyệt của mình. Chân giả, giả chân không ai phân biệt nổi một mối họa của
nước Văn Lang đã bùng lên, làm cho dân Văn Lang trở thành nồi da nấu thịt, Bách
Việt Văn Lang Đồng Bào tàn sát lẫn nhau.
Cha
Con Doãn Thường chỉ cần thực thi kế sách. Chiếm lĩnh Bắc Văn Lang một cách dễ
dàng không đổ bao nhiêu giọt máu.Với Bánh Vẽ Dân Chủ Tự Do, Công Bằng Bình
Đẳng, những Thần chú khẩu hiệu khôn khéo. Không có gì quý hơn Tự Do. Quý hơn
Công Bằng Bình Đẳng, Quyền con người được bảo vệ. Quyền được sống, Quyền Tự Do
Quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhà nước của Dân do dân vì dân. Dân chúng Bách Việt
nghe mùi mẩn lao vào như những con thiêu thân.
Cha
con Doãn Thường còn phù phép những danh từ nghe thật sướng tai, làm cho Bách
Việt Bắc Văn Lang chết mê chết mệch. Tất cả là Do Dân. Tất cả là vì Dân. Tất cả
là của Dân. Vương, Quan chỉ là công bộc phục vụ cho Dân. Dân là Chủ. Dân có
quyền quyết định tất cả. Vì Dân là cái gốc của Nhà Nước. Dân còn là Nhà Nước
còn, Dân mất là Nhà Nước mất. Với những câu Thần Chú như thế Dân Chúng chỉ còn biết
đi theo nghe theo mà thôi.
Có
thể nói Cha Con Doãn Thường đã hiểu được phần nào pháp thuật trị quốc của Quốc
Tổ Vua Hùng. Nhưng không có Văn Hóa Cội Nguồn trong tay mà thôi. Cha Con Doãn
Thường chỉ nhờ vào những bánh vẽ Dân Chủ, Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Nhờ vào
những Thần Chú Tất cả là vì dân. Nhà Nước của Dân. Vương Quan chỉ là Công Bộc
của Dân. Nhờ Thần Chú hiệu nghiệm nầy Cha Con Doãn Thường thổi một luồn Ma
Thuật vào tâm hồn người dân Bách Việt làm cho người dân Bách Việt Bắc Văn Lang
chỉ biết cuối đầu tuân theo.
Cha
Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang lập lên đất nước Trung Nguyên.
Nước Văn Lang liền bị chia cắt Bắc Nam. Hùng Việt Vương : Tuân Lang đời thứ 13
Hạ Hùng Vương khó chiếm lại Bắc Văn Lang. Dẫn đến mất luôn Bắc Văn Lang rơi vào
Nhà Chu Phương Bắc thời Chu Nguyên Vương. Chu Nguyên Vương nhà Chu phong cho
Câu Tiễn làm Bá Chủ ở Phương Đông. Câu Tiễn cuối đầu vân mệnh Bắc Văn Lang rơi
vào Phương Bắc từ đó.
Nói
về Việt Tế Gia nghe Doãn Thường phân tích tỉ mỉ về sự lợi hại nổi dậy cướp lấy
Bắc Văn Lang phản lại nhà nước Văn Lang với những câu mị chú vô cùng lợi hại
liền thức tỉnh thực hiện theo mưu đồ của Doãn Thường. Thực hiện tạo ra những
chiếc Bánh Vẽ Tự Do. Bánh Vẽ Công Bằng, Bình Đẳng. Bánh Vẽ Độc Lập Dân Tộc. Tất
cả là của Dân. Do Dân. Vì Dân. Nhà Nước Của Dân. Vương, Quan chỉ là Công Bộc
của Dân. Để thực hiện mưu đồ Nghiệp Vương Việt Tế Gia tung ra những khẩu hiệu bánh
vẽ và những câu Mị Chú đầy hiệu quả. Phải nói là vô cùng hiệu quả. Và thật vậy
không ai là không mơ ước đến Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Tự Do Mưu Cầu Hạnh
Phúc. Không ai là không mê với câu Mị Chú. Tất Cả là của Dân Do Dân. Và Vì Dân.
Không ai là không sung sướng khi nghe những câu Mị Chú nầy. Nhà Nước của Dân.
Thời không ai là không hết mình. Cố mà xây dựng lên Nhà nước của Dân. Vương,
Quan chỉ là Công Bộc của Dân. Nghe rất êm tai, mát lòng Dân Chúng.
Trong
khi ấy từ phương Nam đến Phương Bắc. Tất cả người Dân sống dưới thể chế Độc
Tài, Độc Trị. Không có một chút Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng gì cả. Vua, Quan,
muốn dân chết là chết, muốn dân sống là sống. Nơi nào cũng thấy đàn áp bóc lột
không nói là thê thảm. Dưới thể chế Độc Tài Độc Trị, người Dân sống trong thể
chế nhà tù rộng lớn. Mất hết tất cả những quyền cơ bản con người. Không khác gì
cuộc sống nô lệ.
Bổng
xuất hiện những Bánh vẽ Tự Do Công Bằng, Bình Đẳng. Tất cả là của Dân, Do Dân
Và Vì Dân. Nhà Nước của Dân. Vương, Quan là Công Bộc của Dân. Dân là Chủ. Thử
hỏi người Dân nào không mê cứ ngở đó là Thiên Đàng trần gian, như thời Quốc Tổ
dựng nước những quyền con người được thể hiện đầy đủ. Không có cảnh người bóc
lột người mà tất cả đều là tự nguyện. Những chiếc bánh vẽ Cha Con Doãn Thường
tung ra mà mỗi người Dân khao khác từ lâu. Đã là khác khao thời chỉ cần nghe
thấy dù đó chỉ là lời nói liền chạy theo ngay. Cũng như người khác nước miễn
cần có nước để được uống đâu còn nghĩ đến
nước đục nước trong, chỉ cần nghe có nước liền chạy tới đâu cần nghĩ gì
đến sự đánh lừa.
Lòng
khao khác Tự Do Công Bằng Bình Đẳng từ lâu. Chỉ cần nghe thấy có sự Tự Do Công
Bằng Bình Đẳng ra đời liền chạy theo ngay. Cha Con Doãn Thường đúng là tổ sư
của tâm lý học hiểu tình hình dân chúng như hiểu trong lòng bàn tay của mình.
Tạo ra một cuộc đánh lừa Bánh Vẽ khôn khéo như vậy. Lại thêm trăm mưu nghìn kế.
Trong đó có một kế sách chủ lực là Mua Quan, Mua chức, Mua quyền. Con Cháu dòng
họ Việt Tế Gia vốn có nhiều người làm Quan Tri Huyện.
Để
thực hiện mưu đồ lớn. Việt Tế Gia bỏ ra vô số vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu mua
chức Quan Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu cho Doãn Thường. Nhờ chức Quan Tri Phủ
nầy, Cùng những Quan Tri Huyện trong dòng họ. Bao che cho tất cả mọi hoạt động
bí mật. Thậm chí luyện tập quân binh trong Châu Phủ cũng như các Nha Huyện
chững bị cho một cuộc nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang. Thờ cơ chín mùi Bắc Văn Lang đi vào loạn lạc cướp bóc hoành
hành nổi dậy khắp nơi. Hơn chín mươi phần trăm Dân Bắc Văn Lang nhanh chóng đi
theo phong trào Dân Chủ Tự Do do Cha Con Doãn Thường khởi xướng lãnh đạo. Làm
lên một cuộc cách Mạng long trời lở đất. Chiếm lấy Bắc Văn Lang Biến Bắc Văn
Lang thành Trung Thổ, Trung Nguyên nước Văn Lang trở thành Nam Bắc phân tranh.
Chiến tranh truyền miên không ngày chấm dứt. Nguyên do là bỡi lạc Cội lạc Nguồn
mất đi văn Hóa Cội Nguồn màng u minh xuống nước Văn Lang.
Lạc Nguồn Lạc Cội khổ từ đây
Chinh chiến đao binh kiếp nạn đầy
Nhìn thấy đau lòng sa giọt lệ
Văn Lang khốn khổ xót thương thay
Nồi da nấu thịt vì lạc lối
Tài gỏi làm gì chân chặt tay
Rồng mất Cội Nguồn Rồng hóa Rắn
Dân lạc Cội Nguồn biến đắng cay.
Thời
Kinh Dương Vương khai khẩn ra đất Giao Chỉ. Lớn nhỏ dọc theo chín con sông.
Giết chết không biết bao là Thuồng Luồng khai sanh ra Nước Xích Quỷ. Trải qua
được chín đời. Đến đời thứ mười thời chuyển qua niên đại Hùng Vương. Nước Xích
Quỷ mở rộng về Phương Nam. Trở thành Nước Văn Lang. Nước Xích Quỷ trở thành Bắc
Văn Lang. QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG KHAI SANH RA NƯỚC VĂN LANG 2959 trước công nguyên.
Nối truyền được 40 đời. Cọng thêm đời Quốc Tổ dựng nước là 41 đời. 23 đời
Thượng Hùng Vương. 18 đời Hạ Hùng Vương. Đến thời Hạ Hùng Vương thứ 13, HÙNG
VIỆT VƯƠNG, TUÂN LANG 569 đến 506 trước công nguyên.
Vào
thời điểm 545 trước công nguyên. Cha Con Doãn Thường nổi lên cướp lấy Bắc Văn
Lang. Biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên. Xưng Vương ở giữa. Bắc
Văn Lang từ đó dần dần biến mất. Những di tích Văn Hóa Văn Lang bị xóa đi. Thay
thế vào đó những di tích Văn Hóa mới. Văn Hóa Trung Nguyên Trung Thổ. Thậm chí
cả tên núi non, đất đai, sông, hồ, cũng cải đổi thành tên mới. Ở vào thời Kinh
Dương Vương. Thời Sông Trường Giang Chính Là Sông Dương Tử. Chi nhánh ngược lên
phía Bắc của sông Dương Tử là Sông Trường. Khi sông Dương Tử chuyển thành sông
Trường Giang. Thời chi nhánh phía Bắc sông Trường Giang, không còn gọi là Sông
Trường mà gọi là Sông Hán. Sông Kinh, Sông Âu, Sông Lạc đều ở Bắc Văn Lang phía
nam sông Trường Giang.
Nói
tốm lại: Phương Bắc xâm chiếm đất Văn Lang tới đâu thời những di tích Văn Hóa
Văn Lang bị xóa sạch. Thay vào đó là những Văn Hóa mới theo Phương Bắc. Nên sử
sách Trung Quốc không ghi chép nguồn gốc nước Văn Lang. Đây là một âm mưu lớn
lâu dài Phương Bắc hầu nuốt trọn nước Văn Lang.
**************
PHẦN 5
Phương
Bắc thời Nhà Chu. Hết thời hưng thịnh Nhà Tề thôn tính hàng phục các nước. Đến
thời Nhà Tấn hùng mạnh chinh phục các nước. Từ thời Tấn Huệ Công xuống tới Tấn
Hoài Công. Tấn Mục Công. Tấn Văn Công. Tấn Cảnh Công. Tấn Lệ Công. Tấn Điệu
Công. Tấn Bình Công. Tấn Chiêu Công. Thời Nhà Chu Phương Bắc cũng đã trải qua
nhiều đời Vua. Chu Vũ Vương. Chu Thành Vương. Chu Mục Vương. Chu Di Vương. Chu
Lệ Vương. Chu Tuyên Vương. Chu Ung Vương. Chu Hoàn Vương. Chu Trang Vương. Chu
Ly Vương. Chu Huệ Vương. Chu Tương Vương. Chu Định Vương. Chu Giãn Vương. Chu
Linh Vương đến Chu Cảnh Vương Nhà Chu. Thời Phương Bắc xảy ra không biết bao
nhiêu là chiến tranh biến loạn, binh đao máu lửa. Hết thời kỳ Tề hưng thịnh.
Đến thời kỳ Tấn ra oai các nước đánh nhau chiến tranh loạn lạc kéo dài mấy trăm
năm dân chúng Phương Bắc điêu linh khắp nơi. Trong cảnh binh đao máu lửa Vua,
Quan vơ vét thậm tệ phụ vụ cho chiến tranh. Dân chúng đói rét cơ cực khốn cùng. Không ít dân chúng bỏ Phương Bắc.
Bỏ xứ ra đi lánh nạn vào Phương Nam. Tức là Bắc Văn Lang sanh sống. Có thời
điểm dân chúng Phương Bắc chạy lánh nạn chiến tranh di cư vào Bắc Văn Lang, chỉ
trong vòng bảy ngày lên đến cả vạn người. Phải nói con số di cư vào Bắc Văn
Lang mỗi ngày mỗi kinh khủng. Đến nổi chính quyền địa phương Châu, Quận, Huyện.
Giải quyết nạn đi cư không nổi, đành để cho phần lớn sống sanh sống vô gia cư
tràn lan khắp Bắc Văn Lang. Làm cho Bắc Văn Lang đi vào hổn loạn. Ở vào thời
điểm nầy.
Hùng
Việt Vương, Tuân Lang. Lên Ngôi Quốc Vương Hoàng Đế Trị Vì Thiên Hạ Thay Cha
Là: Hùng Vũ Vương, Đức Hiền Lang. 569 đến 506 trước công nguyên. Đến 545 thời
Bắc Văn Lang có biến động. Cha Con Doãn Thường nổi dậy. Cùng dân chúng Bách
Việt Văn Lang nổi dậy làm lên một cuộc cách mạng long trời lở đất.
Cha
Con Doãn Thường chiếm lấy hai phần Bắc Văn Lang. Như Bắc Giang Giao Châu. Lạc
Giang Giao Châu. Dương Giang Giao Châu. Quý Linh Giao Châu. Xích Linh Giao
Châu. Hợp Giao Châu. Kinh Giang Giao Châu. Động Đình Châu. Diêm Hồ Châu. Giao
Giao Minh Châu. Ninh Giao Châu. Tam Giang Châu Thượng Tây giang Châu. Uất Lang
Việt Châu. Lâm Giang Tây Châu. Quế Giang Giao Châu. Liễu Giang Châu. Lạc Trung
Châu. Hạt Linh Châu. Kiến Giao Châu. Phúc Hải Châu. Lâm Giang Tây Châu. Định
Giao Châu.
Cùng
thời điểm ấy Tây Bắc Văn Lang Dân Chúng nổi dậy chiếm lấy Cương Châu xưng Vua
Cương Việt. Cướp lấy Ngô Châu xưng là Ngô Việt. Cướp ấy Di Châu xưng Vua Di
Việt. Cướp lấy Liêu Châu xưng là Liêu Việt. Cướp ấy Hung Châu xưng là Hung
Việt. Cướp Lấy Lưu Châu xưng là Lưu Việt. Cướp Lấy Phù Châu xưng là Vua Phù Việt.
Cướp Lấy Lỗ Châu xưng là Lỗ Việt. Cướp Lấy Mân châu xưng là Vua Mân Việt. Cướp
lấy Ngung Châu xưng là Ngung Việt. Cướp lấy Nô Châu xưng là Vua Nô việt.
Cũng
cùng thời điểm ấy Đông Bắc Văn Lang Dân Chúng nổi dậy chiến Đông Hải Châu xưng
là Vua Đông Việt. Chiếm lấy Đông Bắc Hải Châu xưng là Vua Hải Việt. Chiếm lấy
Nam Hải Giao Châu xưng là Vua Giao Việt. Dạ Loan Châu xưng Loan Việt. Chiếm lấy
Thất Khê Châu xưng Vua Khê Việt. Chiếm lấy
Đình Hải Châu xưng Vua Điền Việt. Chiếm lấy Cái Hải Châu xưng Vua Lạc Việt.
Chiếm lấy Hạ Giang Châu xưng Vua Lang Việt. Thế dân nổi dậy như nước vỡ bờ
chiếm lấy toàn bộ Bắc Văn Lang.
Doãn
Thường là nhà Quân Sự Chính Trị tài năng lỗi lạc hiểu rõ tình thế xã hội. Hiểu
rõ nguyện vọng của dân. Hiểu rõ tâm lý của dân. Và cũng hiểu rõ nói láo là mẹ
đẻ của chính trị dẫn đến thắng lợi thành công. Với câu khẩu hiệu tất cả đấu
tranh là vì Dân giải phóng bóc lột cho Dân. Giải phóng nô lệ cho Dân. Đêm Lại
quyền sống quyền tự do cho Dân. Ai cũng có đất ruộng để cày. Lập lên Nhà Nước
của Dân do Dân vì Dân. Quân Đội của Dân Vì dân mà chiến đấu vì dân mà quên
mình, bảo vệ độc lập tự chủ xóa bỏ nô lệ. Lập lên một Xã Hội, Công Bằng, Bình
Đẳng, Dân Chủ, Văn Minh. Thoát khỏi ách Độc Tài Độc Trị, Thoát khỏi thể chế xin
cho, thoát khỏi tham quan tàn bạo. Lập
lên nước Việt Trung Nguyên dân giàu nước mạnh thay thế cho nhà nước Văn Lang.
Nhà Nước độc tài độc trị. Đi ngược lại di chí Quốc Tổ Vua Hùng. Tất cả ngôn từ
văn từ như một liều thuốc bổ. Dân chúng theo Cha Con Việt Tế Gia như nước vỡ
bờ.
Ngày
3 tháng 2 năm 545 trước công nguyên Cha Con Doãn Thường triệu tập các Vua Việt
hội nghị tại Đất Cối Kê nơi đền thờ Vua Vũ
từ thời Nhà Hạ đến Phương Nam đến Đất Cối Kê lập nghiệp. Hơn mấy mươi
Vua Việt ở Đông Bắc Văn Lang. Tây Bắc Văn Lang, đều tới dự hội đông đủ. Gọi là
Hội Liên Minh Việt Bắc Văn Lang. Nơi Đất
Cối Kê đền Thờ Vua Vũ. Doãn Thường như một vị anh hùng biện tài vô ngại thuyết
phục các Vua Việt mới nổi lên đòi tự trị
liên minh thành một khối. Trở thành một Nhà Nước mới. Nhà Nước Trung Thổ
Việt Trung Nguyên.
Bài
hùng biện của Doãn Thường trước các Vua Việt
như sau:
Thưa các chư vị Anh Hùng chúng ta là những
người khác khao Tự Do, khác khao Công Bằng, Bình Đẳng. Giành lại Quyền Sống.
Quyền Tự Quyết. Quyền Tự Do Mưu Cầu Hạnh Phúc. Xây dựng lên một Nhà Nước Trung
Lập Nhà Nước Của Dân, Do Dân, và vì Dân. Loại bỏ chế Độ Độc Tài Độc Trị. Sống
Theo Hiến Pháp, Luật Pháp. Ai cũng như ai Bình Đẳng. Như thời Quốc Tổ Vua Hùng
dựng lên Nhà Nước Văn Lang. Các Vua Hùng thời nay không làm theo lời dạy Quốc Tổ.
Trở thành Nhà Nước Độc Tài Độc Trị. Nhà Nước không lấy dân làm gốc. Không Ai
sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Mà sống theo thể chế Độc Tài Độc Trị,
thể Chế của sự xin cho. Thể chế của sự bóc lột thậm tệ. Không làm đúng những gì
Quốc Tổ Vua Hùng đã dạy. Chúng ta là con cháu Tiên Rồng. Chúng ta đi theo lời
dạy Quốc Tổ Vua Hùng. Sống Tự Do Công Bằng Bình Đẳng. Không phải sống dưới ách
thống trị cường hào nô lệ. Muốn thực hiện một Nhà Nước Trung Lập Việt Trung
Nguyên Tự Do. Công Bằng. Bình Đẳng, Công Minh như thời Quốc Tổ Vua Hùng. Thời
chúng ta phải liên minh đoàn kết bầu lên Minh Chủ Việt Vương. Lập lên Nước Việt
Trung Nguyên. Nam Có Hùng Vương. Bắc Có Chu Vương. Chính Giữa Có Việt Vương. Cách
đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước. Phương Nam ở vào thời Hùng Huy Vương.
Phương bắc ở vào thời Chu Di Vương. Bắc Văn Lang cũng đã nổi lên đòi tự trị chiếm
lấy các Châu Bộ. Hình thành lên cả trăm Vua Việt nhưng rốt cuộc đã bị thảm bại
bị trước thế lực xâm lược Ân Mao Vương, Hung Di Vương. Hồ Vương. Thôn tính giết
sạch. Nếu còn sót vị Vua Việt nào thời Hùng Huy Vương cho quân tri quét diệt
tận gốc. Đây là bài học cho chúng ta. Với địa thế Bắc Văn Lang trở thành Nước
Việt Trung Thổ Trung Nguyên. Đất đai phì nhiêu rộng lớn. Sông Hồ Kinh Rạch
chằng chịt. Dân số đông không kém Nam - Bắc là mấy. Chúng ta sẽ có một đội quân
hùng mạnh Nam đánh bại thế lực Hùng Vương. Bắc đánh bại thế lực Chu Vương. Vì
sao lại nắm chắc như thế. Vì Thế lực Hùng Vương đang trên đà suy yếu. Tham Quan
mọc lên như nấm. Mạnh ai nấy lo túi riêng của mình. Nhất là đánh mất Văn Hóa
Cội Nguồn không làm đúng như những gì lời dạy Quốc Tổ. Đánh mất lòng tin của
muôn dân. Tuy Thế lực Hùng Vương còn rất mạnh. Nhưng chúng ta không phải là
ngoại xâm. Mà là những người người Dân bất mãn với thể chế Độc Tài Độc Trị
không làm theo lời dạy quốc Tổ Vua Hùng. Trở thành Nhà Nước Độc Tài Độc Trị không
khác gì Nhà Nước Phương Bắc những Vương, Quan, tham lam tàn bạo. Đã đánh mất
lòng tin của Dân Chúng. Nên Dân Chúng không ít người bỏ Hùng Vương mà theo
chúng ta. Còn Phương Bắc Nhà Chu cũng đã đến thời suy yếu Con Cháu Nhà Chu Tàn
Sát Lẫn Nhau. Không kể gì tình anh em ruột thịt. Chỉ biết tranh giành đị vị
quyền lực. Ăn nuốt lẫn nhau. Các trấn Chư Hầu cũng chẳng khác chỉ tranh hùng
tranh Bá. Mạnh được yếu thua. Thắng là Vua thua là Giặc. Lúc nầy Sở Linh Vương
đang thời hưng thịnh tranh hùng tranh Bá dữ dội. Các nước Phương Bắc lo sợ luôn
ở vào thế chiến tranh. Sở Linh Vương cậy thế hùng cường đánh hết nước nầy đến
nước khác chiến tranh dữ dội. Con cái Sở Vương tranh ngôi thôn tính lẫn nhau.
Sở Bình Vương giết chết ba anh lên ngôi càng thêm hổn loạn. Nói chung Phương
Bắc chiến tranh tàn khóc ai lo phận nấy khó mà làm gì được chúng ta. Thời cơ đã
giúp chúng ta làm lên nghiệp lớn. Nếu Chúng Ta biết đoàn kết lập lên một Nhà
Nước Việt Trung Nguyên hùng mạnh. Trong tương lai một là nuốt trọn nước Văn Lang. Hai là nuốt trọn Phương Bắc. Làm lên một lịch
sử Trung Nguyên hào hùng long trời lở đất.
Các
Vua Việt mới nổi lên tự trị nghe có lý nếu không chung nhau đoàn kết thành một
Nước Việt Trung Thổ Trung Nguyên hùng mạnh thời phía Bắc sẽ bị Ngô, Sở, đánh
vào thôn tính. Phía Nam Vua Hùng đánh ra tiêu diệt Chẳng khác gì thời Phù Đổng
Thiên Vương cách đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước. Hơn năm mươi Vua Việt
muốn tồn tại thời phải đoàn kết đại đoàn kết như một bó đủa khổng lổ không ai
bẻ nổi. Sự nhận thức về sự tồn tại, các Vua Việt đồng tôn Doãn Thường lên làm
Việt Vương.
Doãn
Thường khôn khéo nói:
Mỗ Tôi tuy được các Đại Anh Hùng tín nhiệm
tôn phong lên làm Việt Vương. Nhưng Mỗ tôi giới thiệu một người tài trí có công
lớn trong cuộc khởi nghĩa thắng lợi nầy đó là Việt Tế Gia (Cha của Doãn Thường).
Thế
Là Việt Tế Gia được các Đại Anh Hùng
toàn Bắc Văn Lang suy tôn lên Làm Việt Vương. Đầu Mùa Thu 545 Nhà nước Việt Trung Nguyên ra
đời. Tạm Thời xử dụng Kinh Đô Kinh Dương Vương làm Kinh Đô Trung Thổ Trung
Nguyên. Việt Vương Tế Gia nhờ có Doãn Thường cũng cố Triều Chính nhanh chóng.
Việt tế Gia lập Doãn Thường làm Thế Tử nối ngôi Vương.
Gian đảng âm mưu cướp đất rồi
Vẽ vời bịa chuyện cứu dân ôi
Văn Lang miền Bắc còn đâu nữa
Xưng Vương xưng Chúa trổ hung tôi
Khổ ải trùm lên dân khốn khổ
Lạc Nguồn lạc Cội Cáo Sói xơi
Nước non, non nước đầy binh lửa
Văn Lang máu đổ cảnh đầu rơi.
**************
PHẦN 6
Nói
về Con Cháu Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn liên quan đến tội giết Vua. Bằng trốn vào
Nam đến Bắc Văn Lang sanh sống trải qua nhiều đời trở thành dân Văn Lang Hàng
năm đều dự hội đồng hương nơi đền thờ Vua Vũ nên được Con Cháu Vua Vũ giúp đở có
người trở thành Triệu Bá Gia giàu có nhất nhì Bắc Văn Lang.
Con
Cháu Triệu Xuyên đến đời Triệu Phàn thời giàu có nổi tiếng Bắc Văn Lang trở
thành Triệu Bá Gia. Có ba người con tài năng vô song Văn Võ song toàn. Triệu
Quân. Triệu Hàn. Triệu Anh. Việt Vương Tế Gia phong Triệu Phàn Bá Gia chức Thượng
Quân Nguyên Soái thống lãnh 10 vạn quân cùng ba người con làm chủ Tướng trấn
giữ Đông - Nam Trung Thổ Trung Nguyên tức là Đông, Nam Bắc Văn Lang chống trả
lại thế lực Hùng Việt Vương, Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương.
Việt
Vương Tế Gia phong cho Triệu Công Con Cháu nhiều đời Triệu Thuẫn. Chức Trung
Quân Nguyên Soái thống lãnh 10 vạn quân cùng hai Con phong làm Chủ Tướng. Triệu
Côi. Triệu Chi. Trấn giữ Tây Nam Trung Thổ Trung Nguyên. Tức là Tây Nam Bắc Văn
Lang.
Việt
Vương Tế Gia phong Phạm Đổ Chinh chức Tân Quân Nguyên Soái thổng lĩnh 10 vạn
quân. Cùng hai phó Chủ Tướng là Chũng Hầu. Giá Chữ. Trấn giữ chánh Nam Trung
Nguyên, tức là Chánh Nam Văn Lang.
Việt
Vương Tế Gia phong con Chư Hạo, Chư Mạnh Hùng Trung Quân Nguyên soái, cùng hai
con Chư Kế Dĩnh. Chư Tôn Quá làm Đại Tướng thống lãnh 10 vạn quân trấn giữ Tây
Bắc Trung Nguyên tức là Tây Bắc Văn Lang.
Việt
Vương Tế Gia phong Linh Việt Hàn Tân Quân Nguyên Soái. Thống Lãnh 10 vạn quân
cùng hai Con là Linh Cô Phù. Linh Quang Dũng. Trấn giữ Trung Bắc Trung Nguyên,
tức là Trung Bắc Văn Lang.
Việt
Vương Tế Gia phong cho Thường Thọ Quá chức Thượng Quan Đại Phu thống lĩnh 7 vạn
quân, cùng con là Thường Thọ Chí trấn giữ Đông Bắc Trung Nguyên tức là Đông
Bắc Văn Lang.
Việt
Vương Tế Gia phong cho tất cả các Vua Việt. Tây Trung Nguyên. Đông Trung
Nguyên, tức là Tây Văn Lang Đông Văn Lang thành các Trấn chư hầu dưới sự điều
khiển Nhà Nước Việt Trung Nguyên. Thế là nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời bài
bản vô cùng hùng mạnh.
Với
chính sách đổi mới Bắc khác Nhà Chu. Nam khác Vua Hùng. Lập lên một nhà nước
Việt Trung Nguyên mới lạ. Nhà Nước lập lên bằng danh từ bóng bẩy. Sống trên
danh từ nói một đường làm một nẻo. Nói Tự Do nhưng lại quản lý cuộc sống con
người chặt chẽ. Nói lấy dân quyền làm gốc nhưng thật ra dân không có cái quyền
gì cả. Nói tất cả là của dân nhưng thật ra tất cả là của Nhà Nước dân trắng tay
không ai có một tất đất nào làm công khoáng trắng của Nhà Nước Độc Quyền Độc
Tài. Độc Trị của một nhốm người. Người dân chỉ là công cụ nô lệ. Có thể nói Nhà
Nước Việt Trung Nguyên là Nhà Nước lạm dụng danh từ sống trên danh từ. Nhà Nước
ảo không có gốc Nhân Quyền chỉ tạo lên Bánh Vẽ Dân Chủ Tự Do, bánh vẽ lấy Dân
Làm Gốc. Lừa đảo lòng ham muốn của dân. Đem tất cả cái lợi về cho dân nhưng
toàn là những bánh vẽ không bao giờ ăn
được chỉ nghe cho sướng tai. Chỉ thấy trên lời nói. Trên giấy tờ thế mà cũng tạo lên sự chú ý Dân Chúng Phương
Bắc cũng như Phương Nam.
Một
số lớn Dân Chúng cả hai phương Nam - Bắc cho rằng Nhà Nước Việt Trung Nguyên ra
đời mới thật sự là Nhà Nước của Dân do Dân và vì Dân. Và Họ muốn theo về Nhà
Nước Việt Trung Nguyên. Vì thế nhà nước Việt Trung Nguyên càng về sau càng lớn
mạnh sự đánh lừa khôn khéo nầy cũng đêm lại những kết quả ban đầu. Nhưng về sau
Dân Chúng phát hiện hiểu ra Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng, Dân Chủ, Nhân Quyền,
Dân là cái gốc của Nhà Nước. Nhà nước của Dân do Dân vì Dân. Tất cả chỉ là
chiếc Bánh vẽ để lừa. Nhưng khi hiểu ra thời tất cả đã muộn. Cha con Doãn
Thường cũng chẳng khác gì các Vua Nhà Chu. Các nước Phương Bắc Độc Quyền, Độc
Tài, Độc Trị. Quản lý gắt gao mọi sự
sống của Dân quản lý chặt chẽ hơn nữa. Tất cả người dân như đang sống trong một
nhà tù lớn. Không có tự do hay Công Bằng, Bình Đẳng, Dân quyền gì cả. Mà tất cả
sự sống của dân chỉ là sự sống nô lệ. Trước đây nô lệ cho những Địa Chủ, Phú
Nông. Nay Toàn dân trở thành nô lệ cho Nhà Nước. Nhà Nước Độc Quyền, Độc Tài,
Độc Trị. Nhà Nước của sự xin cho bóc lột
sức lực của muôn dân một cách khéo léo không Nhà Nước nào bằng. Như con đĩa hút
máu người mà không thấy đau.
Khi
dân biết được mưu đồ khai dựng sự nghiệp Việt Vương của Cha Con Doãn Thường,
thời mọi chuyện đã rồi. Ý Vua là Ý Trời thuận thời sống, chống là chết. Tất cả
tài sản của Dân Chúng chính là tài sản của Nhà Nước. Khi cần thời Nhà Nước lấy.
Với một thể chế xin cho Nhà Nước Việt Trung Nguyên làm gì thì làm tàn bạo còn
hơn Nhà Nước Văn Lang ở các thời cuối
Hậu Hùng từ thời Hùng Việt Vương, Tuân lang trở xuống. Cũng như Phương Bắc Thời
Mạc Nhà Chu.
Nói
chung Phương Bắc. Phương Nam. Việt Trung Nguyên, cá mè một lứa cũng Độc quyền.
Độc Tài, Độc Trị chẳng khác gì nhau. Tham quan tàn bạo. Thắng là Vua, thua là
Giặc xem đi xét lại Giặc với Vua cũng chẳng khác gì nhau. Nhà Nước Việt Trung
Nguyên không tồn tại được lâu, như triều đại Hùng Vương kéo dài độc lập 2701 năm. Trong khi Cha Con Doãn
Thường cướp lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Trung Nguyên độc lập tự chủ chỉ
trên dưới 70 năm.
Đến
thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu năm 496 trước công nguyên. Vua
Nguyên Vương Nhà Chu, phong Bá cho Việt Vương Câu Tiễn. Trở thành (Việt Bá
Vương) làm chủ Phương Đông. Việt Vương Câu Tiễn cuối đầu dâng Việt Trung Nguyên
cho Nhà Chu.
Bắc
Văn Lang trở thành đất Phương Bắc. Tức thời Bắc Văn Lang nhà nước Việt Trung
Nguyên lại chuyển sang một giai đoạn mới. Giai đoạn Trung Quốc trở thành trấn
chư hầu Nhà Chu. Việt Trung Nguyên trở thành đất Bắc nhập về Phương Bắc. Bắc
Văn Lang mất từ đây.
Nước
Văn Lang chỉ còn lại Miền Trung, Miền Nam. Không cách gì lấy lại Bắc Văn Lang
được nữa triều đại Việt Vương Tế Gia. Đến thời Nhà Tần thời coi như hủy diệt
không còn. Thay thế vào đó là Triệu Việt Vương.
Nói
tốm lại lịch sử Bắc Văn Lang bị Cha Con Doãn Thường cướp, trở thành Trung Thổ
Việt Trung Nguyên đến thời Việt Vương Câu Tiễn, tùng phục Nhà Chu, Bắc Văn Lang
Trung Nguyên nhập về Phương Bắc chuyển thành Trung Quốc. Tất cả những di tích
Văn Hóa. Cũng như danh nhân những người có công với đất nước Văn Lang bị xóa
sạch. Thay thế vào đó là Văn Hóa Phương Bắc. Thờ phụng những người có công ăn
cướp Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên mà thôi. Chỉ còn sót lại
những di tích Viêm Đế Thần Nông.
Ông
Tổ sáng lập lên nền Văn Minh lúa nước. Từ năm đời niên đại Viêm Đế Thần Nông.
Truyền xuống niên đại Kinh Dương Vương chín đời. Đến đời thứ mười thời chuyển
sang niên đại Hùng Vương 41 đời. Thượng Hùng Vương 23 đời. Hạ Hùng Vương 18
đời.
Cha
Con Doãn Thường cướp lấy Bắc Văn Lang
biến thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Thời không những Văn Hóa truyền
thống Văn Lang bị xóa sạch. Mà những di
tích 41 đời Hùng Vương. Cũng như các Công Thần có công chống ngoại xâm giữ
nước, cũng đều bị xóa sạch, thay thế vào đó là Văn Hóa Trung Nguyên mới sáng
lập. Cũng như những danh nhân có công cướp lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước
Trung Nguyên.
Cha
con Doãn Thường làm như thế là làm cho Bắc Văn Lang sẽ dần dần biến mất không
còn tồn tại nữa. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu theo về Phương
Bắc. Thời Trung Nguyên Bắc Văn Lang lại tiếp tục xóa sạch những di tích Văn
Lang còn sót lại. Di Tích Chín đời Kinh Dương. Chỉ còn sót lại Thời Viêm Đế
Thần Nông. Kể từ khi nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời. Thời nước Văn Lang chỉ
còn Trung Văn Lang, Nam Văn Lang mà thôi.
Về
sau có thơ rằng :
Doãn Thường cướp lấy Văn Lang
Xưng Vương xưng Đế nối nhau đời đời
Nào hay Phương Bắc nuốt rồi
Cáo già đã giả con trời còn chi
Tiếng đời để lại bia ghi
Phản non hại nước mấy khi trường tồn
Thảm thương con cháu Tiên Rồng
Lạc Nguồn Lạc Cội mắc vòng khốn nguy
Thiên Đàng đã mất lối đi
Hồn sa Địa Phủ Âm Ti nghìn trùng.
Khi
cha con Doãn Thường lên ngôi Việt Vương biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Việt
Trung Nguyên. Thời những di tích Văn Hóa Văn Lang từ thời Kinh Dương Vương đến
thời Đại Hùng Vương đều xóa sổ không cho dân chúng nhắc tới nữa. Thay thế vào
đó một số di tích Văn Hóa mới. Văn Hóa thời đại Trung Nguyên. Thờ phụng những
người có công nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang. Thay đổi một số tên sông. Chẳng
hạn như sông Dương, đổi tên thành sông Trường Giang. Một số tên núi. Thay đổi
tên Châu. Bộ. Thay đổi tên Kinh Đô. Kinh Đô Xích Quỷ thành Kinh Đô Trung
Nguyên. Nói chung là thay đổi hầu hết, danh từ mới thay cho danh từ cũ.
Văn
Hóa Truyền Thống Văn Lang dần dần biến mất không còn. Đều đáng nói ở đây Cha
Con Doãn Thường biến Nước Xích Quỷ, Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên.
Xảo ngôn Truyền Bá đất Trung Nguyên là do công lao Vua Vũ khai lập ra. Thế hệ
đời sau mắc lừa cho rằng công lao Vua Vũ, thực là to lớn. Dẫn nước chín con
sông, làm cho chín Châu có thể ở được. Con cháu Vua Vũ. Đến thời Việt Vương Câu
Tiển, đánh bại nước Ngô. Trả đất lại cho nước Sở. Trả đất lại cho nước Lỗ. Mà
nước Ngô đã chiếm lấy.
Việt
Vương Câu tiễn hòa hảo với các trấn chư hầu đất Bắc. Như Tề. Tấn. Vân Vân . . . cùng một số trấn chư hầu khác hội hộp ở Từ Châu. Tùng
phục theo Nhà Chu. Vua Nguyên Vương Nhà Chu. Phong Cho Việt Vương Câu Tiễn VIỆT
BÁ VƯƠNG làm chủ phương Đông. Việt Vương Câu tiễn cuối đầu dâng Việt Trung
Nguyên cho Phương Bắc. Tức thời đất việt Trung Nguyên lại chuyển sang một giai
đoạn mới không còn độc lập tự trị nữa mà trở thành TRUNG QUỐC.
**************
PHẦN 7
Nói
về Cha Con Doãn Thường từ khi lên ngôi Vương luôn cũng cố bộ máy Độc Tài Độc
Trị. Một cách hiệu quả. Kiểm soát quản lý vận hành chặt chẽ vững bền không sơ
sót. Luôn luôn phát huy sức mạnh cơ sở
hết đêm cái lợi ảo nầy ra đến cái lợi ảo khác cuốn hút người dân chạy
theo. Tất cả cái lợi ảo đều từ chính sách ban ra nhưng không bao giờ thực hiện
được. Chỉ đọc ra cho Dân nghe sướng tai mà thôi.
Cha
Con Doãn Thường mở ra thật nhiều trường học nhưng có học mà không đi vào cuộc
sống học toàn Văn Từ đồi trị có lợi cho việc mưu phản lại nhà nước Văn Lang
chẳng ra đâu, càng học càng dốt. Chuyên moi móc những cái xấu của Vua Quan nhà
nước Văn Lang, tán tụng việc làm phản loạn của mình cho là việc làm chính
nghĩa.
Những
ai nói lên sự thật liền bị chém đầu hoặc bị cô lập cho đến chết. Tuy mở rộng
con đường giáo dục nhưng để ca tụng cuộc cách mạng thần thánh của mình. Mở
trường lớp dạy dân nhiều nhưng học toàn là những chuyện mê tín những cuộc tình
lãng mạng trai gái. Hầu làm cho dân chúng quên truyền thống dân tộc anh linh
hơn mấy nghìn năm.
Nói
tốm lại có học nhiều nhưng không đâu vào đâu cả càng học nhiều thời càng mờ mịt
không có tôn chỉ mục đích nào cả. Các vị tu Tiên trên núi thường nói (Chính
sách ngu Dân đã được thực hiện). Dân Bắc Văn Lang dần dần quên Cội quên Nguồn,
nhưng cơ trời đã thế khó mà cứu vãn được. Tương Lai của người Dân Bắc Văn Lang.
Không phải đi đến no cơm ấm áo. Mà là
sống trên văn từ bóng bẩy. Bằng cấp hư danh. Làm mê hoặc lòng ham muốn của con
người mà thôi.
Có
thể nói không có Nhà nước nào hộp hành nhiều như Nhà Nước Việt Trung Nguyên hầu
như ngày nào cũng hộp. Mục đích là để bôi trơn bộ máy. Khỡi động liên tục đè
bẹp những ý tưởng phản loạn. Diệt mần họa trong trứng nước không cho có cơ hội
suy nghĩ đúng sai tạo phản. Cha Con Doãn Thường tạo ra một thể chế kiểm soát
gắt gao chặt chẽ không những quản lý về vật chất không cho dân chúng giàu sang.
Mà còn quản lý cả tinh thần ý nghĩ của dân chúng. Cha con Doãn Thường thực hiện
chính sách như vậy, cứ nghĩ làm như thế Nhà Nước Trung Nguyên sẽ được bền vững
lâu dài. Nào hay đâu lại dẫn đến mau sụp đổ.
Cha
Con Doãn Thường nào hiểu, sự tồn tại của chế độ
chính là phát triển Tiến Hóa Xã Hội. Sự tồn tại của Xã Hội chính là cái
mới thay thế cho cái cũ. Sự tồn tại của Nhà Nước chính là Công Bằng Bình Đẳng.
Sự bảo thủ độc tài độc trị, kìm hảm sự phát triển xã hội, kìm hảm quyền tự do
của con người, chính là đi vào con đường tự sanh tự diệt. Không cần đánh đổ nó
cũng tự sụp đổ. Sự tiến hóa loại bỏ cái cũ lỗi thời, tiến đến cái mới non trẻ,
tiến hóa loại bỏ tự nhiên, không có sự mâu thuẩn xung đột nào cả đó chính là sự
trường tồn văn minh xã hội. Sự cũng cố Độc Quyền. Độc Tài, Độc Trị. dù cho có
tài tình tinh vi đến đâu cũng dẫn đến sự xơ cứng của thể chế bảo thủ Độc Quyền,
Độc Tài, Độc Trị dẫn đến Nhà Nước Trung Nguyên đi vào xóa sổ. Chỉ khi nào thật
sự đi vào quy luật tự nhiên cái mới liên tục phát triển thay cho cái cũ lỗi thồi
mới đi vào tồn tại lâu dài.
Cha
Con Doãn Thường không những không làm được điều đó có thể nói là chưa phát hiện
ra điều đó. Mà chỉ tạo ra những chiếc bánh vẽ lừa gạt dân chúng mà thôi. Nên
không thể trụ vững lâu dài được cuối cùng cũng bị Phù Sai đánh bại. Về sau Câu
Tiễn tuy diệt được Phù Sai nhưng cuối đầu trước Nhà Chu. Được Nhà Chu Chu
Nguyên Vương phong Bá. Bá Vương Câu Tiễn Trung Nguyên không còn tự chủ Độc Lập
được nữa thuộc về Phương Bắc. Việt Trung Nguyên chuyển sang một giai đoạn mới
giai đoạn trở thành Trung Quốc. Việt Trung Nguyên xát nhập về Phương Bắc thời Chu
Nguyên Vương hàng năm phải chịu sự cống nạp cho Nhà Chu. Bắc Văn Lang coi như biến mất không còn từ
đây.
Đây
nói về nơi Kinh Đô Văn Lang. Ngày 20 tháng 3, 545 trước công nguyên Hùng Việt
Vương, Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương vô cùng tức giận khi nghe tin Cha
Con Doãn Thường nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang.
Trước
Vương Triều Hùng Việt Vương quát hỏi triều thần:
Cha Con Doãn Thường là ai mà ghê gớm như vậy
nổi loạn chiếm lấy Bắc Văn Lang.
Hầu
TônVương nghe Quốc Vương hỏi liền bước ra báo cáo rằng:
Muôn tâu Quốc Vương bệ Hạ Cha Con Doãn
Thường là con cháu 31 đời Vua Vũ thời Nhà Hạ. Di cư đến Huyện Cối Kê Lạc Giang
Giao Châu sanh sống. Nhập cư thành dân Bách Việt Văn Lang, trở thành dân Văn
Lang chính thống. Giàu có thuộc bậc nhất Bắc Văn Lang. Doãn Thường làm quan đến
chức Quan Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu. Dòng họ Vũ có Âm Mưu chiếm đoạt Bắc Văn
Lang từ lâu, nhưng không mấy ai phát hiện được. Khi phát hiện được thời đã bị
Cha Con Doãn Thường nổi dậy cướp mất Bắc Văn Lang rồi.
Hùng
Việt Vương nghe xong nổi giận đùng đùng hét lớn:
Lũ cướp nước hại dân hại nước kia phải tiêu
diệt cho bằng được không để cho một tên sống sót. Các Khanh hãy hiến kế cho
Trẫm để Trẫm nhanh chóng cho người quét sạch Cha Con Doãn Thường trừ hậu họa.
Hầu
TônVương nghe xong bằng tâu rằng:
Muôn Tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Cha Con Doãn Thường
đã có âm mưu dã tâm chửng bị từ trước lôi kéo dân chúng nổi dậy chiếm lấy Bắc
Văn Lang thế lực rất mạnh. Trung Văn Lang đang trong cơn hổn loạn không phân
biệt được phải trái trắng đen. Có người cho rằng Cha Con Doãn Thường là các Vua
Hùng tái sanh lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên. Nên dân chúng theo Cha Con
Doãn Thường như nước vỡ bờ không có cách gì ngăn cản lại nổi thế lực phản loạn
như cơn bão không những chiếm lấy Bắc Văn Lang mà còn tràn vào trung Văn Lang.
Châu Phủ, Thục An Kim. Anh Kỳ. Thạch Trung Sơn. Kỳ Thọ ra sức chống trả. Không
cho Quân nổi loạn tiếng vào Trung Văn Lang. Tình thế vô cùng cấp bách.
Hùng
Việt Vương nghe Hầu Tôn Vương tâu như vậy lấy làm kinh hãi nói:
Các Khanh có kế sách gì chống trả lại thế
lực quân phản loạn không?
Hùng
Việt Vương Tuân Lang, hỏi đi hỏi lại đến mấy lần thấy dưới triều các Quan Tướng
làm thinh.
Hùng
Việt Vương than:
Các khanh thường ngày khoe tài khoe giỏi,
cái tài cái giỏi bay đi đâu hết rồi.
Từ
chỗ ngồi Hầu Lạc Vương đứng dậy nói:
Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ. Cha Con Doãn Thường
nổi lên làm loạn chiếm lấy Bắc Văn Lang nhanh chóng như vậy. Là có sự đồng tình
phần lớn dân chúng Bắc Văn Lang. Nhất là thành phần dân chúng Phương Bắc lánh
nạn chiến tranh di cư vào Bắc Văn Lang sanh sống đều theo Cha Con Doãn Thường.
Chưa kể tình trạng dân chúng di cư qua Bắc Văn Lang làm ăn bất hợp pháp chưa
nhập tịch thành dân Văn Lang trên hai triệu người. Nghe Đâu các bang phái ác ma
tà giáo cũng gia nhập theo quân phiến loạn Cha Con Doãn Thường. Thế lực quân
phản loạn phải nói là rất hùng mạnh nếu không có kỳ tích nhân tài xuất hiện
thời khó mà dẹp quân phản loạn nhanh chóng được.
Hùng
Việt Vương nghe Hầu Lạc Vương báo cáo như vậy thời không khỏi lấy làm lo lắng.
Hầu
Thừa Vương từ chỗ ngồi đứng dậy nói:
Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ. Quân phiến loạn Cha
Con Doãn Thường là quân nội loạn. Không phải là quân xâm lược có sự đồng tình
của dân chúng đã cấu kết thành sức mạnh được sự che chở của muôn dân Bắc Văn
Lang khó mà đánh tan một ngày hai ngày được. Đáng lý ra tiêu diệt mầm phản loạn
ngay từ đầu, giờ đây thời đã muộn khó mà tiêu diệt vì dân chúng Bắc Văn Lang đã
lập Cha Con Doãn Thường làm Việt Vương Tế Gia có nghĩa là Dân Chúng Bắc Văn đã có Quốc Vương mới dân chúng Bắc
Văn Lang phò cha con Doãn Thường chống trả lại nhà nước Văn Lang nên khó mà
tiêu diệt nhanh chóng được. Lại nữa Cha Con Doãn Thường không phải là quân xâm
lược mà là quân loạn tặc phản loạn nổi dạy quyết lật đổ nhà nước Văn Lang lập
lên thời đại mới, thời đại Việt Trung Nguyên. Đã có cái gốc mưu đồ quá lớn Bá
Tánh muôn dân Bách Việt Bắc Văn Lang vì thế mà tin theo. Thế lực vô cùng vững
chắc. Không như cách đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước ở thời Phù Đổng
Thiên Vương. Các Bộ Lạc Bách Việt Văn Lang nổi lên đòi trự trị chỉ là ảnh hưởng
Văn Hóa Phương Bắc không có thống nhất tổ chức. Mạnh ai nấy xưng Vua, xưng
Chúa. Còn cuộc nổi dậy của Cha Con Doãn Thường là có âm mưu từ trước, đường đi
nước bước điều có sự tính toán chu đáo
nội cái việc mua Quan bán Tước ở Bắc Văn Lang không ai phát hiện ra. Nội sơ Con
Cháu dòng họ của Việt Tế Gia có hơn mười Quan Tri Huyện. Một Qua Tri Phủ. Chưa
nói đến Con Cháu của Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn có đến năm Quan Tri Huyện. Cho
thấy dòng họ Vũ, dòng họ Triệu có âm mưu từ trước phải nói là rất lâu đời nhưng
không tài nào phát hiện được. Khi phát hiện được thời Bắc Văn Lang đã về tay
Cha Con Doãn Thường phải nói là một cuộc loạn tặc phản loạn tài tình hết sức
chu đáo. Chỉ còn cách là dốc toàn lực lượng đánh một trận. Một là lấy lại Bắc
Văn Lang. Hai là…
Hầu
Lạc Vương dừng lại không nói. Hùng Việt Vương Tuân Lang hỏi:
Sao khanh không nói tiếp.
Hầu
Lạc Vương nói:
Bệ Hạ cho phép thời Thần mới nói.
Hùng
Việt Vương nói:
Khanh cứ nói.
Hầu
Lạc Vương nói:
Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ Cha Con Doãn Thường
biết lợi dụng hình ảnh Quốc Tổ che chở cho mình một lá bùa hộ mệnh không ai phá
nổi. Cha con Doãn Thường, thường nói CÁC VUA HÙNG CÓ CÔNG DỰNG NƯỚC DÂN TỘC
BÁCH VIỆT VĂN LANG CHÚNG TA CÙNG NHAU GIỮ LẤY NƯỚC. Dân chúng Bắc Văn Lang cho
rằng Cha Con Doãn Thường mới thật sự làm theo di chí Quốc Tổ. Nên ra sức bảo
bọc như tường đồng vách sắt khó mà đánh bại ngay được. Chỉ còn cách là chờ thời
cơ thuận lợi chiếm lấy lại Bắc Văn Lang ngoài hai cách đó không còn cách nào
hơn.
Hùng
Việt Vương nghe xong nổi giận quát:
Khanh có biết Bắc Văn Lang là vựa lúa lớn
nhất nước Văn Lang Không? Mất Bắc Văn Lang là có nghĩa chúng ta suy yếu mà còn
trở nên nghèo đói khó mà trở nên hùng mạnh được nữa.
Hầu
Lạc Vương sợ hãi nói:
Thần đã biết tội.
Hùng
Việt Vương nói:
Bằng mọi giá phải chiếm lại cho bằng được
Bắc Văn Lang không để mất Bắc Văn Lang được.
Bằng
ra lệnh cho Văn Khánh đại Tướng Quân Thống Soái thống lãnh 30 vạn quân đến Vân
Giao Châu kết hợp với quân Kỳ Thọ đang cố thủ tại Quang Hải Châu kết hợp với
quân Thạch Trung Sơn đang cố thủ tại Bạch Lang Châu. Kết hợp với quân Anh Kỳ đang cố thủ tại Tiên
Châu kết hợp với quân Thục An Kim đang cố thủ tại Âu Tây Châu. Tiến đánh thẳng
ra Bắc dốc toàn lực bắt Cha Con Doãn Thường đêm về trị tội. Thần Tuân Lịnh.
Đây
nói về Thống Soái Văn Khánh thống lãnh 30 vạn quân đến Vân Giao Châu. Tức thời
chia làm ba đạo quân. Đạo quân cánh Tả do Chủ Tướng Lê Quang thống lãnh 8 vạn
quân tiến thẳng đến Âu Tây Châu. Đạo quân cánh hửu do Huỳnh Trung Kỳ thống lãnh
8 vạn quân tiến thẳng đến Quang Hải Châu. Còn đạo quân chủ lực Văn Khánh thống
soái thống lãnh 14 vạn quân tiến thẳng đến Bạch Lang Châu. Tiên Châu.
Đây
nói về Thục An Kim đang là Tri Phủ Âu Tây Châu nghe hung tin Cha Con Doãn
Thường nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang thời vô cùng kinh hãi tình thế vô cùng
nguy cấp liền huy động lực lượng quân binh trấn giữ cố thủ tại Âu Tây Châu. Chỉ
hơn bảy ngày sau ở trên thành bốn Cha Con Châu Phủ Thục An Kim nhìn ra hướng
Bắc thấy quân phản loạn chia ra nhiều đạo quân tiến về Âu Tây Châu cờ xí gươm
giáo trùng trùng không bao lâu thời quân phản loạn bao vây thành Âu Tây Châu.
Đứng
trên thành nhìn xuống thấy cờ Vua Lưu Việt. Cờ Vua Phù Việt. Cờ Vua Lỗ Việt. Cờ
Vua Nô Việt. Cờ Vua Ngung Việt. Cờ Vua Mân Việt. Cờ Quân Việt Trung Nguyên.
Quân phản loạn bắc loa kêu gọi mở cửa thành đầu hàng bỏ Hùng Vương. Theo Việt
Vương.
Châu
Phủ Thục An Kim đứng trên thành chửi:
Các ngươi đều là con cháu Tiên Rồng. Con Dân
Bách Việt Văn Lang cùng chung một Quốc Tổ Vua Hùng. Sao đi theo Cha Con Doãn
Thường làm Phản.
Các
Vua Việt nghe Thục An Kim nói thế làm thinh. Triệu Công Phi ngựa tới nói:
Họ Thục An kia ngươi nói sai rồi kẻ thức
thời mới là trang anh hùng tuấn kiệt phải nhận biết thời thế ngọn gió Nam chấm
dứt thời ngọn gió Bắc ra đời. Hiện nay tình thế thay đổi nước Văn Lang không
còn như thời Quốc Tổ Vua Hùng, mà là nhà nước Văn Lang Vương, Quan, Thần, Tướng
ai vì túi nấy. Bỏ bê dân chúng, mặc cho lê dân khốn khổ. Vua Hùng chỉ lo chọn
cho nhiều cung phi mỹ nữ. Để cho Vương Quan lộng hành làm bậy đánh mất hết lòng
tin muôn dân. Cơ Trời đã báo hiệu khí số niên đại Vua Hùng mấy nghìn năm đã sắp
kết thúc rồi còn gì. Theo Ta nghĩ chim khôn tìm cây mà đậu, người khôn tìm chúa
mà thờ. Khí số nên đại Vua Hùng đã hết. Cơ Trời ấn định Việt Vương ra đời.
Các
Vua Việt hùa theo Tướng Soái nói:
Đúng chúng tôi là dân Bách Việt. Đương nhiên
phải đi theo Việt Vương không theo Hùng Vương nữa.
Thục
An Kim nghe những lời trái tai đó quát lên như sấm nổ:
Thằng Triệu Công hổn láo kia ai thời không
biết lý lịch của ngươi. Nhưng đối với ta thời ta quá rõ. Tổ Tông ngươi là Triệu
Xuyên. Triệu Thuẫn khi còn ở Nước Tấn đã mưu phản giết vua Di Cao Tấn Linh
Công. Đến đời Tấn Cảnh Công. Đồ Ngạn Giả
lật ngược tình thế. Dòng Họ Triệu
các ngươi bị tru di cửu tộc. Quân
Binh truy sát. Ông Cha ngươi trốn qua Bắc Văn Lang sinh sống Vua Hùng không xử
tệ với dòng Họ Triệu các ngươi. Cho nhập quốc tịch Dòng Họ Triệu các ngươi trở
thành dân tộc Văn Lang. Các ngươi không những không biết ơn manh tâm theo cha
con Đoãn Thường làm phản tội đáng chết. Với cái tội phản loạn thời chết chẳng
được toàn thây rồi. Còn xúc phạm uy linh Quốc Vương tội
đáng tru di cửu tộc. Bỏ gươm giáo xuống tự sát kết liễu đi.
Cha
Con Triệu Công, nghe Châu Phủ Thục An Kim chửi hay quá sợ lay động lòng quân
sĩ. Bằng hét lớn:
Thời đại ngày nay kẻ thắng thời là Vua, kẻ
thua là Giặc Ai thờ chủ nấy. Trên chiến trường chỉ có sức mạnh gươm đao giáo
mác. Kẻ nào mạnh thời thắng, kẻ nào yếu thời thua. Kẻ thắng chính là vua, người
thua chính là giặc. Đó là lẽ thường ở đời mau đầu hàng Việt Vương Tế Gia đi thời
sống chống lại thời chết.
Về
sau thơ rằng :
Bách Việt Văn Lang chẳng còn gì
Chỉ còn tranh bá giết nhau đi
Chính nghĩa gì đâu rời Cội Gốc
Lạc Nguồn lạc Cội khốn với nguy
Cội Nguồn Văn Hóa đã mất đi
Hiểm họa đao binh nạn kể gì
Chiếm tranh loạn lạc đầy sóng gió
Đồng Bào tàn sát có kể chi
Thương ôi lạc Cội đành tan nát
Văn Lang binh lửa dậy trời mây
Kiếp nạn trùm lên đầu dân chúng
Văn Lang khốn khổ, khổ từ đây
Quốc Đạo Văn Lang đã mất rồi
Nước nhà loạn lạc khổ ôi ôi
Trước mắt u minh buông trùm xuống
Yêu Tinh Quỉ Dữ chúng nốt xơi
Anh hùng lạc đạo ngơ với ngác
Hiếu trung, trung hiếu lạc chơi vơi
Thắng Vua, thua Giặc hề một lũ
Thi nhau chém giết máu đầu rơi.
**************
PHẦN 8
Đây
nói về Lê Quang Chủ Tướng, thống lĩnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Âu Tây Châu.
Còn cách Âu Tây Châu mười dặm liền cho quân thám tính. Thời biết Quân Phản loạn
đang bao vây thành Âu Tây Châu. Liền chính đốn quân ngũ chia là ba đạo quân.
Đạo Quân cánh hửu hai vạn quân từ phía đông đánh bọc lên thành Âu Tây Châu. Do
tướng La Thông chỉ huy. Đạo quân cánh tả hai vạn quân từ cánh Tây đánh bọc
xuống thành Âu Tây Châu. Do Tướng Sơn Tây chỉ huy. Còn đạo quân chủ lực Lê
Quang Chủ Tướng trực tiếp chỉ huy đánh thẳng vào quân địch chính Nam Âu Tây
Châu đang bao vây cửa Nam thành Âu Tây Châu.
Nói
về Quân Phản loạn Việt Trung Nguyên Ba Cha Con Triệu Công đang dồn quân phía
Nam thành Âu Tây Châu tìm cách tấn công thành.
Thời
nghe quân thám báo về báo:
Quân Văn Lang đã kéo đến bao vây tấn công
chúng ta.
Tức
thời ba Cha Con Triệu Công bày binh bố trận sẳn sàng giao chiến với quân Văn
Lang. Triệu Công thông báo cho hai cánh quân đang bao vây Đông - Tây thành Âu
Tây Châu. Cánh Quân loạn tặc phản loạn bao vây Đông thành Âu Tây Châu do Vua
Lưu Việt. Phù Việt trược tiếp chỉ huy. Cánh quân loạn tặc phản loạn bao
vây phía Tây thành Tây Âu Châu do Vua Lỗ
Việt. Vua Nô Việt chỉ huy.
Nói
về ba Cha Con Triệu Công dàn binh bố trận đâu vào đấy thời thấy xa cát bụi mù
mịt.
Trên
thành Âu Tây Châu quân binh đang reo hò:
Quân chủ lực Văn Lang đến rồi. Quân Văn Lang
đến rồi.
Tiếng
quân binh reo hò vang dậy trời đất. Triệu Công kinh hải quân Văn Lang đến nhanh
như thế sao liền ra lệnh không tấn công thành Âu Tây Châu nữa mà chuẩn bị
nghinh chiến.
Nói
về Chủ Tướng Lê Quang thấy quân phản
động Trung Nguyên trùng trùng lớp lớp ước tính trên mười vạn quân Lê Quang
không ngờ quân phản loạn Việt Trung Nguyên đông như vậy. Trong khi mình chỉ có
bốn vạn quân. Nhưng nhìn thấy thành Âu Tây Châu chưa mất khí thế chiến đấu vững
mạnh. Lê Quang nghĩ quân Âu Tây Châu từ trong thành đánh ra, thời có thể đánh thắng được quân phản loạn Việt Trung
Nguyên. Bằng thúc quân vượt lên xông tới giao chiến. Quân Văn Lang hò hét dậy
trời người ngựa gươm đao giáo mác ào ào lao tới xáp chiến với quân Việt Trung
Nguyên hai bên giao tranh long trời lở đất. Triệu Công cũng không thua kém thúc
quân tiến tới sẳn sàng đánh trả khí thế hừng hực. Triệu Công thấy Chủ Tướng Văn
Lang thân cao bảy thước cỡi con ngựa Bạch. Đầu đội Kim khôi mình mang giáp sắt
oai phong lẫm liệt cầm thanh đại đao to lớn ước nặng đến trăm cân thời biết đây
là một dũng Tướng có sức mạnh kinh người.
Nói
về Lê Quang nhìn thấy Triệu Công tuy lớn tuổi mình cao bảy thước oai phong lẩm
liệt cỡi con ngựa đen. Đầu đội kim khôi, mình mang giáp đồng tay cầm đại đao
ước lượng nặng không kém gì cây đại đao của mình thời biết đã gặp kỳ phùng địch
thủ. Lê Quang định phóng ngựa lên giao chiến với Triệu Công
Tướng
Mạnh Hổ nói:
Chỉ là một con Lợn già cần gì đến mãnh Hổ,
để Thuộc hạ lấy đầu cho rồi.
Lê
Quang nói:
Tướng quân hãy cố hết sức bình sanh.
Mạnh
Hổ hiểu ý nói:
Thuộc hạ quyết lấy cho được thủ cấp của
giặc.
Mạnh
Hổ mình cao sáu thước cỡi con ngựa xám mình mặt giáp sắt tay cầm trường đao to
lớn ước nặng tám mươi cân phi ngựa tới hét lớn:
Quân phản loạn mau ra đây cuối đầu chịu
chết.
Triệu
Côi thấy Tướng Văn Lang hung dữ như vậy liền nói với Triệu Công:
Để con ra giết quách đi cho rồi.
Triệu
Côi nói xong phóng ngựa lao ra chém một giáo mạnh như thiên lôi giáng. Mạnh Hổ
múa đao lên đở ken đinh tai nhứt óc. Hai bên đánh nhau khói bụi mù mịt giáo đao
chém qua chém lại ầm ầm ngựa người xáp tới lao vào bật ra, xáp lại đánh nhau
cát bụi mù trời kinh khiếp.
Đúng
là:
Hai Hổ đánh nhau kinh hồn
Cát bay đá chạy Giáo Đao ầm ầm
Ngựa người lao tới rầm rầm
Đao như thác đổ bão gầm Giáo tuôn
Đánh cho trời đất chuyển rung
Đánh cho non núi đổ nghiêng dậy trời
Tám mươi hiệp đã qua rồi
Bất phân thắng bại kinh thời khiếp kinh.
Nói
về Tướng Nhị Beo thấy Mạnh Hổ chưa hạ gục được Triệu Côi bằng nói với Lê Quang:
Để tôi ra hiệp sức giết chết tướng địch cho
rồi.
Nhị
Beo nói xong liền phóng ngựa lao ra, tức thời có tiếng quát như sấm nổ:
Có ta đây đừng hổn láo.
Một
bóng người phi ngựa lao ra chém tới Nhị Beo. Nhị Beo múa thương chống trả choang
một tiếng đinh tai nhứt óc.
Nhị
Beo quát:
Phản tặc xưng tên rồi chịu chết.
Triệu
Chi quát:
Ông Nội ngươi đây nộp mạng đi.
Triệu
Chi múa giáo chém tới như mưa. Nhị Beo múa đao chống trả quát:
Thằng phản loạn giặc con Ông Cố Tổ ngươi đây
mau về chầu Âm Phủ.
Trường
thương mạnh Hổ đâm chém như mưa sa bão táp thế là hai bên xáp lá cà đánh nhau
như sấm sét cát bụi mịt trời.
Nhìn trận chiến mà đau xót dạ
Cảnh tương tàn Bách Việt Văn Lang
Cũng cùng con cháu Rồng Tiên
Cớ sao nên nổi đảo điên tranh giành.
Lê
Quang đứng xem trận chiến tấn công trước giành phần chủ động liền chỉ kiếm lên
trời hết lớn:
Tử chiến.
Tức
thời ngựa hí vang trời quân reo dậy đất quân Văn Lang ào ào xông tới.
Triệu
Công cũng chỉ Đao lên trời hét lớn:
Xông lên tử chiến.
Hai
bên như nước vỡ bờ ào ào lao vào nhau
xáp lá cà chém thôi là chém.
Thơ
rằng :
Ôi thôi trận đánh kinh hồn
Giáo Đao Thương Kiếm ầm ầm dậy non
Đầu rơi máu đổ xương tan
Thi nhau ngã gục máu loang đất bằng
Còn chi Con Cháu Tiên Rồng
Còn Chi Bách Việt trường tồn còn chi
Ngựa Người dẫm đạp lên nhau
Thây phơi thịt xẻ nát tương nát nhừ
Đồng bào cùng một Cuội Nguồn
Chỉ vì Lạc Cội tranh giành giết nhau
Văn Lang một Cội trước sau
Giờ đây chém giết khiếp kinh hãi hùng
Nam Bắc tranh bá ầm ầm
Văn Lang binh lửa dậy trời từ đây
Kìa Chiến trận quân vây lớp lớp
Kìa Gươm Đao gào thét dậy non
Văn Lang ơi hỡi Văn Lang
Từ đây đành phải nát tan cơ đồ
Nhìn trận chiến khắp cùng thây chất
Tiếng hò reo tàn sát kinh thiên
Văn Lang Bách Việt Anh Em
Nồi Da nấu thịt thảm thê đất trời.
Đây
nói về La Thông Tướng Quân thống lĩnh hai vạn quân đánh bọc từ phía đông lên
thành Âu Tây Châu gặp phải một đội quân hùng mạnh hơn hai vạn quân trấn giữ
người chỉ huy là Vua Lưu Việt. Vua Phù Việt.
La
Thông phi ngựa tới quát:
Lưu Việt, Phù Việt hai ngươi là Bách Việt
Văn Lang sao lại phản lại nhà nước Văn Lang.
Vua
Lưu Việt nói:
Ta với Ngươi giờ đây ai thờ chủ nấy.
Từ
xa Vua Phù Việt phi ngựa lao tới chém La Thông với sức mạnh sấm sét. La Thông
múa trường thương chống trả choang choang đinh tia nhức óc.
La
Thông Quát:
Loạn Tặc phản loạn xem đây.
Tức
thời La Thông múa trường đao phi ngựa chém tới như mưa. Vua Phù Việt múa giáo
chống trả một còn một mất. Vua Phù Việt thấy không hạ gục được La Thông bằng
phi ngựa thoát ra cuộc chiến phất cờ hiệu lệnh tấn công vào quân Văn Lang. Thế
là quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên ào ào xông lên càng quét quân Văn Lang
như thác đổ.
La
Thông nào chịu kém chỉ kiếm lên trời hét lớn:
Quét sạch những tên phản loạn cho ta.
Thế
là Quân Văn Lang ầm ầm xông tới hai bên xáp chiến long trời lỡ đất. La Thông
múa trường Thương phi ngựa lao tới đâm chém Vua Lưu Việt tới tấp. Vua Lưu Việt
ra sức chống trả. Đường Thương La Thông như rồng bay phụng múa kỳ bí làm cho
Vua Lưu Việt chống đở muốn hụt hơi. Vua Phù Việt thấy Vua Lưu việt yếu thế liền
phi ngựa xông vào xáp chiến. Nhưng đã trể Vua Lưu Việt bị La Thông đánh trúng
một thương ngã nhào xuống ngựa bị thương rất nặng đứng dậy không nổi. La Thông
nhanh như chớp bồi thêm một thương nữa Vua Lưu Việt chết tốt.
Vua
Phù Việt lấy làm kinh khiếp định quày ngựa bỏ chạy La Thông liền phi ngựa rượt
theo đánh trúng một thương như trời giáng Vua Phù Việt trào máu ngã nhào xuống
ngựa hồn du Địa Phủ.
Thơ
rằng :
Sống thác là thường lý
Phù du cũng một đời
Nhưng chết cho có nghĩa
Linh Hồn mới thảnh thơi
Đằng nầy cái chết theo quân phản loạn
Hồn du địa Phủ tàn đời
Khó mong trở lại làm người
Cũng vì lạc Cội lạc Nguồn mà ra.
Quân
Văn Lang thắng thế reo hò vang dậy ào ào xông tới chém quân phản loạn Trung
Nguyên như chém chuối. Quân phản loạn Trung Nguyên lớp chết lớp bị thương bỏ
chạy về hướng Bắc. Quân Văn Lang không tri sát tiến lên bao vây đánh bọc hậu
vào mười vạn quân của ba Cha Con Triệu Công.
Khi
ấy ở núi Phù Vân có năm vị tu Tiên đắc
Đạo tên là Phù Vân Đạo Sĩ. Nhìn thấy Bắc Văn Lang hung khí đầy trời liền co tay
bấm quẻ không khỏi thở dài nói:
Văn Lang đi vào kiếp nạn. Ý trời đã vậy khó
mà cứu vãn, Tiên Thánh như chúng ta cũng đành bất lực. Bắc Văn Lang không bao
lâu nữa sẽ rơi vào tay Nhà Chu xát nhập về phương Bắc.
Thơ
rằng :
Ngán thay cho cõi Hồng Trần
Thịnh suy, suy thịnh xoa vần lao đao
Mặt Trời Văn Hóa mất đi
Văn Lang suy sụp còn chi cơ đồ
Từ đây chinh chiến bão bùng
Thần Tiên lánh nạn về Trời nương thân
Yêu Tinh xuất hiện chuyển xây
Giả chân, chân giả khó thay cho đời
Anh hùng lạc đạo đã rồi
Nước non, non nước ngập trời đao binh
Văn Lang ơi hỡi Văn Lang
Non sông Bách Việt tương tàn lẫn nhau
Nhìn thế cuộc thấy lòng đau
Đồng Bào một cội thi nhau tương tàn
Bỡi vì lạc Cội lạc Nguồn
Tranh giành chém giết hận thù triền miên.
**************
PHẦN 9
Đây
nói về Tướng Sơn Tây thống lĩnh hai vạn quân nhanh chóng đánh bọc từ phía tây
Âu Tây Châu đánh xuống. Bổng thấy hơn một vạn quân phản loạn cờ xí rợp trời
xông ra chận đánh.
Tướng
quân loạn tặc phản loạn là Vua Nô Việt mình cao sáu thước đầu đội kim khôi mình
mang giáp đồng cỡi con ngựa màu nâu tay cầm trường giáo nặng khoảng 60 cân cản
đường quát:
Tướng Văn Lang kia mua xuống ngựa quy hàng
thời sống bằng chống trả thời chết.
Sơn
Tây quát:
Ta là Tướng Văn Lang mà quy hàng bọn giặc cỏ
làm loạn các ngươi. Lão Tổ ngươi đã đến sao không mau xuống ngựa đầu hàng.
Vua
Nô Việt cả giận phi ngựa lao tới chém Sơn Tây một giáo mạnh như trời giáng. Sơn
Tây múa trường đao chống trả, choang choang đinh tai nhứt óc. Hai bên đã thử
sức biết đối thủ không thua kém gì mình.
Sơn
Tây quát:
Thằng cháu giặc cỏ ngươi có mắt như mù thờ
Yêu Tinh Quỉ Dữ cha con Doãn Thường đã gặp ta thời coi như tới số xem đường đao
lão tổ của ngươi đây.
Tướng
Sơn Tây nhanh như tia chớp múa đao pháp kình phong tuôn ra ù ù chém vào Vua Nô
Việt như sấm sét.
Vua
Nô Việt cũng ra oai không kém hét lên một tiếng:
Xem đường giáo của sư gia đây.
Tức
thời múa giáo vù vù cát bay đá chạy phi ngựa lao tới chém ầm ầm vào Sơn Tây hai
con hổ đánh nhau một còn một mất đao giáo choảng nhau liên miên bất tận. Hai bên
càng đánh càng hăng cát bụi mịt trời.
Về
Sau có thơ rằng :
Một bên con Hổ Văn Lang
Một bên con Hổ Trung Nguyên thét gầm
Hai bên giao chiến ầm ầm
Đao qua Giáo lại đùng đùng dậy non
Đường Đao chơm chớp trời Nam
Giáo tuôn sấm sét dọc ngang đất trời
Giáo - Đao trăm hiệp qua rồi
Bất phân thắng bại ai nào thắng ai
Cát bay đá chạy kinh thiên
Rền trời rền đất đảo điên rền trời
Xem đi xét lại nực cười
Tranh Giành chém giết hết rồi anh em
Nước non gặp lúc tối đen
Anh hùng lạc đạo hết mong về trời.
Trong
lúc hai con Hổ chiến đấu hăng say thời quân Vua Lỗ Việt Trung Nguyên từ sau
đánh bọc tới quân Văn Lang trước sau bị địch bao vây Phó Tướng Sơn Tùng tức tốc
điều khiển một đạo quân chống trả lại thế đánh bọc hậu của Vua Lỗ Việt. Quân Lỗ
Việt từ sau bọc hậu đánh tới liền thấy
quân Văn Lang dạt ra hai bên như vòng cung.
Từ
trong vòng cung xuất hiện một tướng quân Văn Lang oai phong lẫm liệt quát lên
như sấm:
Có Tướng Nam nhà trời đây quân phản loạn khó
mà chạy thoát.
Vua
Lỗ Việt nhìn thấy Sơn Tùng oai phong lẫm liệt như thế cũng hơi ngán. Nhưng ở
vào thế cỡi cọp không đánh cũng không được. Liền thúc quân xông tới giao chiến.
Sơn Tùng nghĩ muốn thắng giặc phải giết tướng trước. Quát lên một một
tiếng phi ngựa lao tới chém Vua Lỗ Việt
một đao sấm sét. Vua Lỗ Việt múa đao chống trả choang một tiếng đinh tai nhứt
óc. Vua Lỗ Việt cánh tay tê nhứt như muốn gãy kinh hồn bạc vía phi ngựa bỏ chạy.
Sơn Tùng phi ngựa phóng theo vớt một đao bay đầu.
Quân
loạn tặc phản loạn Trung nguyên thấy Vua Lỗ Việt chết liền đạp lên nhau bỏ
chạy. Quân Văn Lang không rượt đuổi mà quay ngược trở lại tấn công vào Quân Vua
Nô Việt. Quân Nô Việt chống không lại quân binh rối loạn Bị quân Văn Lang xông
tới chém tới tấp.
Vua
Nô Việt hét lên một tiếng đánh bậy một giáo rồi phi ngựa bỏ chạy như bị tên
quân Văn Lang bắn chết. Quân Văn Lang thắng thế hò hét vang trời dậy đất thi
nhau rượt theo chém quân trung nguyên như chém chuối thây phơi lớp lớp thê thảm
chưa từng thấy.
Về
sau có thơ rằng :
Anh Em cùng một
nước non
Bất đồng chí hướng máu loang chiến trường
Bỡi gì lạc mất Cội Nguồn
Tranh giành chém giết hãi hùng biết bao
Mất đi truyền thống Cha Ông
Như cây mất gốc như sông mất nguồn
Yêu Tinh Quỉ Dữ lộng hành
Bày ra cuộc chiến tranh giành hại nhau
Chúng dân khốn khổ lao đao
Lạc Ngồn lạc Cội lạc vào hiểm nguy
Bắc Nam máu đổ đầu rơi
Cũng vì Lạc Cội ôi thôi lạc Nguồn
Từ đây khốn khổ vô cùng
Binh đao máu lửa ngập tràn khắp nơi
Đúng sai, sai đúng là đâu
Cũng vì lạc Cội xé xâu tan tành.
Đây
nói về ba Cha Con Triệu Công đang chiến đấu hăng say. Thúc 10 vạn quân tiến lên
đè bẹp quân Văn Lang, quân Văn Lang chỉ có bốn vạn khó mà chống cự cho lại,
quân phản loạn Việt Trung Nguyên ào ào xông lên lấy thịt đè người. Trận thế
đang nghiêng về quân loạn tặc phản loạn, quân Văn Lang yếu thế hơn thấy rõ.
Triệu Côi, Triệu Chi, áp đảo tướng Mạnh Hổ, Tướng Nhị Beo.
Triệu
Côi, Triệu Chi múa giáo vù vù chém tới tấp nhác nào nhác nấy như trời giáng.
Tướng Mạnh Hổ, Tướng Nhị Beo ra sức chống đở yếu thế thấy rõ sắp bị đánh bại
tới nơi còn Chủ Tướng Lê Quang ra sức đánh với Triệu Công.
Triệu
Công tuy lớn tuổi nhưng võ nghệ cao cường múa trường đao như sấm sét chém tới
như mưa. Lê Quang múa đao chống trả thế đao chém tới ầm ầm trận chiến kinh hồn
cát bay đá chạy không ai chịu thua ai. Quân Văn Lang đang trong lúc yếu thế có
thể nói là sắp bị đánh bại tới nơi. Trong lúc nguy cơ ấy.
Bổng
nghe chiêng trống vang trời quân reo dậy đất. Hai bên cánh tả, cánh hửu phía
sau lưng quân loạn tặc phản loạn. Quân Văn Lang đánh thốc tới thế mạnh như chẻ
tre dưới sự chỉ hủy của Tướng La Thông. Tướng Sơn Tây.
Mười
vạn quân phản loạn Trung Nguyên tức thời rối loạn. Cùng lúc ấy bốn Cha Con Tri
Phủ. Thục An Kim, Thục An Chu, Thục An Hãn, Thục An Ngưu ở trên thành Âu Tây
Châu nhìn thấy hai cánh quân phản loạn Đông - Tây do các Vua Việt chỉ huy đã bị hai cánh quân
Văn Lang đánh bại. Liền mở cổng thành thống lĩnh hơn một vạn quân xông ra hiệp
cùng hai cánh quân Văn Lang từ phía sau đánh bọc tới, dồn ép quân phản loạn
Việt Trung Nguyên vào giữa tiêu diệt.
Thơ
rằng :
Binh hùng tứ phía bao vây
Quân reo dậy đất cờ bay rợp trời
Quân Nguyên bị đánh tơi bời
Chỉ vì phản lại Vua Hùng tan thây.
Triệu
Công đang hăng say chiến đấu với Chủ Tướng Lê Quang. Bổng thấy quân binh rối loạn
thời chưa hiểu là chuyện gì.
Cùng
lúc ấy một tướng giặc phi ngựa tới nói lớn:
Bẩm Nguyên soái mau cho quân mở đường rút
lui, quân Văn Lang đang bao vây tứ phía dồn ép quân ta vào giữa tiêu diệt.
Triệu
Công nghe nói thất kinh hét lớn:
Bắn pháo lệnh rút lui.
Lê
Quang quát lên như sấm nổ:
Chạy đâu cho thoát.
Liền
phi ngựa đến chém Triệu Công tới tấp. Vị tướng giặc mới đến múa giáo chận đánh
Chủ Tướng Lê Quang. Triệu Công phi ngựa thúc quân binh phá vòng vây Tướng Giặc
múa giáo ra sức đánh với Lê Quang bổng hét lên một tiếng chém tới Lê Quang một
giáo mạnh như sấm sét bất thình lình phóng ngựa chạy dài. Chủ Tướng Lê Quang
không rượt đuổi theo mà thúc quân binh xông lên chém giết quân loạn tặc phản
loạn Trung Nguyên như chém chuối. Quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên kinh hồn
bạc vía người ngựa đạp lên nhau mà chạy. Quân Văn Lang lao theo chém thôi là
chém.
Thơ
rằng :
Tế Gia Yêu Quỉ ra đời
Làm cho Bách Việt đứng ngồi không yên
Ngư Tinh chuyển hóa xưng vương
Mở màng chinh chiến nát tan cơ đồ
Văn Lang binh lửa dậy trời
Chỉ vì tranh Bá của loài Yêu Tinh
Ôi thê thảm còn chi Bách Việt
Thây ngã nhào kết cuộc thảm thê
Văn Lang con cháu Rồng Tiên
Lạc Nguồn Lạc Cội đảo điên cơ đồ
Quỉ Yêu xây chuyển lộng hành
Chia bè rẽ phái tranh giành hại nhau.
Nói
về ba Cha Con Triệu Công thúc quân binh phá vòng vây chạy về Phù Châu. Quân Văn
Lang rượt đuổi theo chém giết tơi bời. Ba Cha Con Triệu Công chạy thục mạng bán
sống bán chết. Thời thấy một đạo quân xuất hiện biết đó là quân của mình vô
cùng mừng rở. Đạo quân trước mặt nhanh chóng đến nơi. Thì ra đó là vợ của Triệu
Côi Phù Châu con của Vua phù Việt. Đang trên đường vận chuyển lương thực. Phù
Châu thấy Cha Chồng và Chồng thất trận thảm thê. Đằng sau quân Văn Lang đuổi
theo chém giết rất dữ.
Phù
Châu nói:
Để con chận đứng quân Văn Lang lại cho.
Nói
xong Phù Châu phi ngựa về phía trước thấy quân Văn Lang trùng trùng lớp lớp hò
hét rượt đổi quân phản loạn Trung Nguyên chém giết ầm ầm dậy trời dậy đất.
Phù
Châu phi ngựa tới hét lớn:
Quân Văn Lang khốn kiếp kia xem đây.
Liền rút ra một cái quạt niệm chú quạt liền ba
cái. Tức thời cuồng phong nổi dậy ầm ầm mù trời mịt đất cát bay đá chạy cây cối
ngã đổ. Quân Văn Lang bị cuồng phong đánh bật trở lại kinh hồn bạc vía rút lui
không còn đuổi theo quân phản loạn nữa. Rút hết về Âu Tây Châu. Triệu Công điểm
lại quân binh, đi tiêu hơn bốn vạn. Xây xẩm mặt mày. Chưa kể các Vua việt bỏ
mạng, cánh Đông cánh Tây quân binh các Vua việt chết hơn phân nữa.
Phù
Châu nghe nói Cha mình Vua Phù Việt đã bỏ mạng khóc sướt mướt nói:
Để con đêm quân giết sạch quân Văn Lang báo
thù.
Triệu
Công thở dài can:
Quân Văn Lang xảo trá Lắm khó mà đánh bại
lúc nầy được phải chờ cơ hội khác. Ngay lúc bây giờ đây là cũng cố lại lực
lượng ngăn chặng không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc.
Bằng
ra lệnh cho Triệu Côi thống lĩnh hai vạn quân đến Phù Châu kết hợp với quân Phù Việt cũng cố thành trì trấn
giữa không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc. Triệu Chi thống lĩnh hai vạn quân đến
Lâm Giang Tây Châu kết hợp với quân Lâm Việt cũng cố thành trì trấn giữ không
cho quân Văn Lang tiến ra Bắc. Triệu Công thống lĩnh hai vạn quân đến Uất Lang
Việt Châu kết hợp với quân Lang Việt cũng cố thành trì trấn giữ không cho quân
Văn Lang tiến ra Bắc.
Tan nát nước nhà do mất Cội
Chiến chinh loạn lạc bỡi lòng tham
Truyền thống Ông Cha vừa quên lãng
Binh đao máu lửa dậy tràn lan
Khốn khổ muôn dân vì đâu hỡi
Độc tài độc trị họa diệt vong
Hãy theo Quốc Tổ thời dựng nước
Pháp Quyền Dân Chủ náo nương thân.
Muốn
xây dựng lên một đất nước thật sự Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. NHÂN QUYỀN Dân
Chủ Văn Minh. Thời phài xây dựng lên Nhà Nước Pháp Quyền, dựa trên nền tản
Quyền con người nhà nước Pháp Quyền của Dân do Dân và vì Dân. Đằng nầy Cha Con
Doãn Thường không hiểu gì về nhà nước Pháp Quyền mà chỉ dựa trên Văn Từ lừa dối
mà thôi.
Cha
con Doãn Thường chủ thuyết xây dựng lên nhà nước Pháp Quyền bằng con đường bạo
lực. Đấu tranh bằng bạo lực thắng là Vua thua là giặc. Thời không thể nào lập
lên một nhà nước Pháp Quyền chân chính được. Mà chỉ lập lên nhà nước độc quyền,
độc tài, độc trị vì muốn lập lên một nhà nước Pháp Quyền thật sự của dân, do
dân, vì dân thời cuộc dấu tranh đó lập lên nhà nước Pháp Quyền, không phải là
cuộc đấu tranh thắng là Vua thua là Giặc. Mà là cuộc đấu tranh Văn Hóa về quyền
con người. Chỉ Có Ở Thánh Chiến, không có ở phàm chiến, thần chiến. Nhà nước
Pháp Quyền phải lập trên nền tản Quyền con
người. Nhân Quyền công bằng bình đẳng. Vì thế lập lên nhà nước Pháp Quyền không phải nhà nước thắng là Vua, thua cho là Giặc, nhà
nước Độc Tài, Độc trị.
Có
thể nói Cha Con Doãn Thường vẽ ra chiếc bánh Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng, Dân
Chủ, Dân Quyền, Văn Minh. Nhà Nước Pháp Quyền của Dân do Dân và vì Dân. Lừa dân
quả thật là tài tình. Dân Bắc Văn Lang vì mê chiếc Bánh Vẽ hợp lòng dân nầy. Nên Dân Bắc Văn Lang sẳn sàng đi theo Cha Con Doãn Thường. Cướp
lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Trung Nguyên Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị quản
lý Dân chúng còn chặt chẽ hơn Phương Bắc Nhà Chu. Phương Nam Vua Hùng.
Dân
Chúng sống trong một nhà tù rộng lớn dưới sự kiểm soát quản lý gắt gao của nhà
nước Trung Nguyên. Tất cả ruộng đất đều về tay nhà nước Trung Nguyên Độc Quyền,
Độc Tài, Độc Trị. Với một thể chế xin cho dân chúng không những sống không có
Tự Do như những gì Cha Con doãn Thường đã nói. Mà còn sống trong cảnh bóc lột
thậm tệ.
Dân
Chúng khi hiểu ra sự lừa đảo của Cha Con Doãn Thường thời tài sản hết sạch tất
cả đều là của nhà nước Trung Nguyên. Dân chúng được nhà nước Trung Nguyên chia
cho có ruộng đất để canh tác làm ăn. Nhưng chỉ là nô lệ khéo làm công cho một
địa chủ lớn là nhà nước Độc Tài Độc Trị. không có dư chỉ đủ sống mà thôi.
Theo
những gì Quốc Tổ Vua Hùng Dạy: Muốn có một đất nước thật sự Tự Do. Công Bằng,
Bình Đẳng, Nhân Quyền Dân Chủ Văn Minh. Thời nhà nước Văn Lang thời Mạc Pháp
Phải tự xóa bỏ Độc quyền, Độc Tài, Độc Trị. Tiến tới nhà nước Pháp Quyền. Nhà
nước Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp là Vua của nước Văn Lang. Nền Quốc Đạo Dân
Tộc. Còn Vương, Vua chỉ là người Đại diện tối cao của nước Văn Lang. Bảo vệ thi
hành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo Dân tộc. Thời nhà nước đó mới
thật sự là nhà nước Pháp Quyền. Nhà nước của Dân do Dân và vì Dân. Nhà nước
Công Bằng Dân Chủ Văn Minh.
Cha
Con Doãn Thường chỉ là xảo ngôn lừa đảo. Mưu đồ cướp lấy Bắc Văn Lang mà thôi.
Khi chiếm lấy được Bắc Văn. Thời lộ bộ mặt Chồn Cáo lộ ra Độc Quyền, Độc Tài,
Độc Trị. Tạo lên thể chế xin cho Tàn Bạo vô cùng. Và cuối cùng cũng đưa đến sự
nhanh chóng hủy diệt. Đất nước Trung Nguyên không còn của Trung Nguyên mà Trở
Thành Trung Quốc Phương Bắc. Những di tích Văn Hóa Văn Lang xóa sạch không còn.
Thay vào đó là di tích Văn Hóa Phương Bắc.
Điều
đáng nói ở đây Dân Tộc Văn Lang đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo dân
tộc. Chạy theo Văn Hóa Phương Bắc. Đánh mất bản Sắc Văn Hóa Truyền Thống Dân
Tộc. Thời nguy cơ mất nước sắp đến. Anh Hùng Lạc Cội. Chia bè rẽ phái nổi lên đòi
tự trị tranh giành đất đai chém giết lẫn nhau. Tạo ra cảnh nồi da nấu thịt Anh
Em tàn sát, tranh bá tranh hùng. Cuối cùng cũng rơi vào tay các thế lực ngoại
xâm. Cũng như Cha Con Doãn Thường dâng Bắc Văn Lang cho Phương Bắc Nhà Chu,
Thời Chu Nguyên Vương.
Gương
lịch sử thời xưa cũng như thời nay ở vào thời nào Dân Tộc Văn Lang. Hay Dân Tộc
Việt Nam. Mà đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn làm phai mờ truyền thống anh linh dân
tộc. Chạy theo Văn Hóa ngoại lại cũng chính là lúc thời kỳ dẫn đến sự đen tối
nhất. Dân chúng không còn đoàn kết được nữa dẫn đến chia bè rẽ phái chém giết
lẫn nhau xưng hùng xưng bá. Cũng là lúc các thế lực ngoại xâm có cơ hội xâm
lược đất nước Văn Lang hay đất nước Việt Nam. Bài học xương máu từ lịch sử Ông
Cha. Mỗi lần cây mất gốc thời héo cành rũ ngọn. Mỗi lần nước không nguồn thời
sông cạn đồng khô. Nói tốm lại: Cứ mỗi
lần quên đi Quốc Tổ Vua Hùng. Quên đi truyền thống anh linh dân tộc. Là mỗi lần
kiếp nạn xảy ra, binh đao máu lửa chém giết lẫn nhau, đói nghèo lạc hậu. Đạo
đức xuống cấp thậm chí dẫn đến không còn lương tri nhân tính làm những điều tội
lỗi không sao tưởng tượng được.
**************
HẾT QUYỂN 1.
COMMENTS